Sai chính tả trong 'Từ điển chính tả tiếng Việt'

Không chỉ người nước ngoài và học sinh mà ngay cả những người trong cơ quan hành chính nhà nước… đều sử dụng từ điển tiếng Việt để tra cứu. Thế nhưng, thật trớ trêu, nếu như cuốn từ điển lại… sai.

Cuốn “Từ điển chính tả tiếng Việt” của GS.TS Nguyễn Văn Khang là một cuốn từ điển như vậy.

Bìa cuốn Từ điển chính tả tiếng Việt của GS.TS Nguyễn Văn Khang.

Bìa cuốn Từ điển chính tả tiếng Việt của GS.TS Nguyễn Văn Khang.

“Từ điển chính tả tiếng Việt” do tác giả GS.TS Nguyễn Văn Khang được NXB Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản từ năm 2018. Sách gồm 806 trang, khổ 10.5 x 18cm. Đơn vị liên kết Công ty TNHH Văn hóa Minh Tân – Nhà sách Minh Thắng.

Trong phần “Hướng dẫn cách sử dụng từ điển”, GS.TS Nguyễn Văn Khang cho biết: “Từ điển chính tả tiếng Việt” này được biên soạn dựa trên cách xử lí chính tả trong “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học” (Hoàng Phê chủ biên).

Tuy nhiên, thực tế cho thấy GS.TS Nguyễn Văn Khang hoàn toàn không “xử lí chính tả” theo tài liệu đã nêu, mà “xử lí” theo cảm tính chủ quan, hoặc căn cứ theo một nguồn tài liệu nào đó, dẫn đến rất nhiều sai sót.

Qua so sánh đối chiếu chúng tôi thấy cuốn Từ điển chính tả tiếng Việt (2018) và cuốn Từ điển chính tả tiếng Việt phổ thông (Nguyễn Văn Khang - NXB Khoa học Xã hội - 2003), gần như giống nhau hoàn toàn. Nghĩa là có tới gần như 100% số lỗi được bê nguyên xi từ cuốn trước (2003) sang cuốn sau (2018). Khác nhau có chăng là lỗi văn bản ở cuốn sau nhiều hơn cuốn trước.

Những sai sót trong cuốn “Từ điển chính tả tiếng Việt” của GS.TS Nguyễn Văn Khang, bao gồm rất nhiều mặt, như: sai chính tả do lẫn lộn CH với TR; S với X; D với R; GI với D; L với N; IU với ƯU; dấu hỏi (?) với dấu ngã (~), cũng là sai kiến thức, hiểu biết về thành ngữ tục ngữ, sai về từ ngữ Hán Việt...

Một trang sách có lỗi.

Một trang sách có lỗi.

Thứ nhất, lẫn lộn giữa S thành X, X thành S. Ví dụ từ điển hướng dẫn: “sán: sán lạn. không viết: xán”, nhưng thực ra viết “xán lạn” mới đúng; “si: nguyên si. không viết: xi” (viết “nguyên xi” mới đúng); “xuất: khinh xuất. không viết: suất” (viết “khinh suất” mới đúng); “xuất: thống xuất. không viết: suất.” (viết “thống suất” mới đúng); “sử: sử kiện. không viết: xử” (viết “xử” mới đúng); “xử: sử tử. không viết: xử” (viết “xử tử” mới đúng); “sử: xét sử. không viết: xử” (viết “xét xử” mới đúng)…

Có ít nhất gần 30 lỗi dạng này, kèm theo lời khuyên hoàn toàn đi ngược lại với chuẩn chính tả hiện hành.

Thứ hai, lẫn lộn R với D; R với GI; R với D; IU với ƯU: “ron: con ron. không viết: don” (viết “con don” mới đúng). “rong: rong riềng không viết: dong” (viết “dong riềng” mới đúng). “giơ: Trục bánh xe bị giơ (= rơ)” (chỉ viết “bị rơ” mới chuẩn). “ăn giơ. không viết: dơ, rơ”. (viết “rơ” mới đúng). “rứt: rứt tình không viết: dứt” (viết “dứt tình” mới đúng). “trừu: trừu mến. không viết: trìu” (viết “trìu mến” mới đúng).

Thứ ba, hướng dẫn viết các thành ngữ tục ngữ thiếu chính xác. Tác giả từ điển chính tả tỏ ra thiếu am hiểu về thành ngữ tục ngữ (kể cả gốc Hán). Rất nhiều dị bản thiếu chính xác, không tồn tại trong thực tế đã được đưa ra làm ngữ liệu hướng dẫn viết chính tả (phần trong ngoặc là đính chính của chúng tôi).

Ví dụ: “Nghe: nghe gà hóa cuốc” (“nhìn gà…”); “nhường: nhường cơm xẻ áo” (“…sẻ áo”); “tụng: khẩu tụng tâm suy” (“…tâm duy”); “tàn: tàn che ngựa cưởi” (“…ngựa cưỡi”); “tay: tay cắt ruột xót” (“tay đứt…”); “tay: tay dùi dục, chân bàn chổi” ( “…bàn cuốc”); “trái: trái trứng trái nết.” ( “trái chứng…”); “trèo: trèo đèo lặn suối” (“…lội suối”); “trông: trông gà hóa cáo” (“…hóa cuốc”); “thâm: thâm nghiêm cùng cốc” (“thâm sơn…”)… Thống kê chưa hết, đã 23 lỗi dạng này.

Thứ tư, nhiều chỉ dẫn giữa các mục từ tiền hậu bất nhất. Ví dụ : “chóc: chim chóc, giết chóc. không viết: tróc”. Đến mục “giết” lại hướng dẫn cả hai dạng: giết chóc, giết tróc”. “chỗi: Đang nằm chỗi (= ngồi dậy). không viết: trỗi”. Đến mục “trỗi” lại viết: không trỗi dậy nổi. không viết: chỗi”...

Thứ năm, nhầm lẫn, đánh đồng phương ngữ, từ ít dùng, từ cũ, với chuẩn chính tả hiện hành (mục có dấu [?] chúng tôi nghi ngờ tính xác thực của từ ngữ). Ví dụ: “đởm: Nghèo mà đởm (= đảm)”. “chủi: Cầm chủi (= chổi) quét nhà”. “chưởi = chửi: chưởi nhau”. “cọng: Tính cọng (= cộng)”. “khút = khuất; Khút sau rặng tre”.[?]. “kiêu: Cây kiêu (= cao) bóng cả.”. “lả: Đốt lả (= lửa)”. “rớp: Nhà có rớp (= dớp)”. “sỉn: không viết: xỉn”[?]. “soai soải (= thoai thoải)”[?]. “tho: Đành chịu tho (= thua)”. “tràng: Tràng (= sàng) gạo” [?].

Thứ sáu, quá nhiều lỗi văn bản (Phần nhiều số lỗi đến bản năm 2018 mới xuất hiện. Chữ viết trong ngoặc đơn là đính chính của chúng tôi). Ví dụ: “Chen cổ không thở được” (chẹn); “chiêm khẽ mùa thối” (khê); “chuông treo chí mành” (chỉ); “đau lờ” (đan); “Đen sáng choang” (đèn); “đĩ trực báo oán” (dĩ); “vồ loài” (vô); “tề chính” (chỉnh); “xéo phái gai” (phải); “chú nhà đi vắng” (chủ); “văn vèo” (vằn); “thấy bỏ thì đào” (bở); “gái rỏ thèm của chua” (rở); “tay sốt đo tay nguội” (đổ). “tử tán” (tứ); “rổ sẻ” (sề)…

Còn nhớ đầu năm 2020, hai ấn phẩm liên kết xuất bản giữa NXB Đại học Quốc gia Hà Nội và Công ty Dịch vụ văn hóa Minh Long, mắc lỗi đạo văn và nhiều sai sót phải thu hồi, tiêu hủy như “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam” của nhóm tác giả Dương Thị Dung, Đặng Thúy Hằng, Nguyễn Thảo Nguyên; “Từ điển chính tả Tiếng Việt” do PGS.TS Hà Quang Năng chủ biên.

Đến nay NXB Đại học Quốc gia Hà Nội lại tiếp tục cấp phép cho cuốn “Từ điển chính tả tiếng Việt” của GS.TS Nguyễn Văn Khang với rất nhiều sai sót, có hại cho tiếng Việt.

Điều đáng nói, GS.TS Nguyễn Văn Khang là người đã từng biên soạn và tham gia biên soạn hàng chục cuốn từ điển, với hàng trăm công trình khoa học đã công bố. Bởi vậy, những sai sót này thật khó chấp nhận, đặc biệt là sai sót lặp lại trong hai cuốn từ điển, cuốn sau cách cuốn trước 15 năm.

Hoàng Tuấn Công

Nguồn Đại Đoàn Kết: http://daidoanket.vn/sai-chinh-ta-trong-tu-dien-chinh-ta-tieng-viet-491573.html