Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: Giải trình Quốc hội về chính sách điều hành tín dụng
Sau phiên thảo luận tại hội trường sáng nay 1/6, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đã giải trình trước Quốc hội về chính sách điều hành tín dụng thời gian qua.
Trong các phiên thảo luận tại hội trường và cũng như tại tổ những ngày vừa qua của Kỳ họp thứ V, Quốc hội khóa XV, một trong những vấn đề "nóng" được đa số đại biểu quan tâm đó là chính sách tài khóa, trong đó có chính sách tín dụng nhằm hỗ trợ, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay hiện nay.
Chính sách tín dụng đã được cân nhắc kỹ lưỡng
Theo báo cáo của Chính phủ, trong những tháng đầu năm 2023, bình quân mỗi tháng có 19,2 nghìn doanh nghiệp rút khỏi thị trường, không chỉ doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa gặp khó khăn mà cả những doanh nghiệp lớn, đa ngành, đa lĩnh vực cũng đối diện với tình trạng thiếu đơn hàng, áp lực trả nợ lớn nên phải ngưng hoạt động, giải thể hoặc chuyển nhượng doanh nghiệp, bán cổ phần. Hệ lụy liền kề là người lao động bị giảm, giãn việc, mất việc diễn ra tại nhiều khu công nghiệp, trong đó, số người rút bảo hiểm xã hội một lần tăng 20% so với cùng kỳ năm 2022.
Ý kiến của nhiều cử tri là các doanh nghiệp cũng đã được các đại biểu đưa ra thảo luận góp ý tại Quốc hội liên quan đến vấn đề lãi suất và khó khăn trong tiếp cận các nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng liên quan đến các chính sách điều hành tín dụng.
Tiếp thu các ý kiến cử tri và đại biểu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng đã có những giải trình về những vấn đề mà cử tri, đại biểu Quốc hội quan tâm.
Theo bà Nguyễn Thị Hồng, trong năm 2022 và 2023, Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ trong một bối cảnh đầy khó khăn, thách thức và có rất nhiều diễn biến mới phức tạp hơn, khó khăn hơn và khó lường hơn so với thời điểm mà Quốc hội và Chính phủ ban hành nghị quyết.
Bà Nguyễn Thị Hồng cho rằng, điều hành lãi suất cũng cần phải được xem xét trong tổng thể điều hành chính sách kinh tế vĩ mô để đảm bảo được đại cục về ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ và đặc biệt là đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Vị Tổng tư lệnh Ngân hàng Nhà nước lý giải, năm 2022 có 2 lý do rất quan trọng để chấp nhận mặt bằng lãi suất cao hơn, đó là lãi suất quốc tế đồng loạt tăng nhanh và mạnh, lạm phát bình quân tăng 3,15%, thấp so với mục tiêu nhưng vẫn cao hơn so với mức 1,84% năm 2021. Đặc biệt là trong nửa cuối năm 2022, lạm phát đang có xu hướng tăng nhanh từng tháng và đến cuối năm lạm phát so với cùng kỳ đã ở mức khoảng 5% và cao hơn rất nhiều so với mức bình quân của lạm phát năm 2021 là 0,84%.
Bên cạnh đó, áp lực mất giá của đồng Việt Nam rất lớn trong năm 2022 khi các nước thắt chặt chính sách tiền tệ và đồng đôla tăng giá rất mạnh. Thời điểm tháng 9, tháng 10/2022, đồng Việt Nam áp lực mất giá lên đến 9-10%, nên Ngân hàng Nhà nước phải có những giải pháp linh hoạt và đồng bộ để ổn định được mức tỷ giá chỉ mất giá 3,5% trong năm 2022.
Bà Nguyễn Thị Hồng cũng đưa ra trường hợp nếu để đồng Việt Nam mất giá trên 10% thì điều gì sẽ xảy ra? Doanh nghiệp sẽ vô cùng khó khăn, do sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài, nếu tỷ giá tăng cộng hưởng với mặt bằng giá thế giới tăng cao dẫn đến chi phí đầu vào tăng cao, chắc chắn lạm phát tăng cao, chưa kể đến doanh nghiệp Việt Nam vay một lượng lớn vốn nước ngoài, nghĩa vụ trả nợ sẽ tăng lên và sẽ rất khó khăn.
“Cho nên, vấn đề này ít được nhắc đến mà tập trung chủ yếu đối với vấn đề lãi suất, khi ổn định được tỷ giá trở lại và với điều kiện tăng chậm lại của lạm phát, trong những tháng đầu năm Ngân hàng Nhà nước đã rất quyết liệt, đã điều chỉnh 3 lần mức điều hành lãi suất, đưa mặt bằng lãi suất của các khoản cho vay mới giảm khoảng 0,9% bình quân so với cuối năm 2021”- Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẳng định.
Bà Nguyễn Thị Hồng chia sẻ: Những giải pháp, liều lượng chính sách và thời điểm được Ngân hàng Nhà nước cân nhắc rất kỹ lưỡng, tất cả để hướng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống và tạo môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp và người dân, không vì mục tiêu nào khác.
Liên quan đến vấn đề tiếp cận tín dụng, theo phân tích của vị Tổng tư lệnh Ngân hàng Nhà nước, chính sách cho vay vẫn giữ nguyên, không có gì thay đổi về mặt cơ chế, chính sách.
“Năm 2022 tăng trưởng tín dụng là 14,16% nhưng 5 tháng đầu năm của 2023 chỉ tăng khoảng 3%, cũng không thể nói rằng đây là do chính sách vì không có gì thay đổi. Còn về phía các tổ chức tín dụng, những tháng đầu năm dư địa về room tín dụng rất thoải mái, không bị chậm và thanh khoản hệ thống được Ngân hàng nhà nước duy trì. Không có lý do gì để các tổ chức tín dụng huy động tiền gửi, trả lãi cho người gửi tiền khi doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn lại không cho vay”- bà Nguyễn Thị Hồng cho biết.
Giải pháp nào cho doanh nghiệp và thị trường vốn?
Theo phản ánh của các đại biểu nhiều doanh nghiệp thiếu đơn hàng, trả lời vấn đề này bà Hồng cho rằng: Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo quyết liệt, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tuy nhiên cũng cần phải có thời gian. Doanh nghiệp cũng như các cơ quan cũng cần hướng đến để khai thác thị trường nội địa với 100 triệu dân để thay thế cho sự suy giảm của cầu nước ngoài. Đối với doanh nghiệp rất khó khăn sau đại dịch COVID-19, không đủ điều kiện vay vốn nên không thể tiếp cận được vốn ngân hàng, theo đó cần có các giải pháp để cải thiện điều kiện vay vốn, có thể thông qua các chính sách như là bảo lãnh vay vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ...
Tăng trưởng tín dụng vào lĩnh vực bất động sản hiện đang cao hơn so với mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, nhưng với những khó khăn của thị trường bất động sản hiện nay có đến 70% khó khăn về pháp lý. Giải pháp được Ngân hàng Nhà nước đề cập đến phải tập trung tháo gỡ những vướng mắc về mặt pháp lý, các doanh nghiệp cần phải rà soát để điều chỉnh giá bất động sản. Như vậy, sẽ kích thích tín dụng cho cả doanh nghiệp xây dựng bất động sản cũng như là người mua nhà.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, trong những tháng đầu năm 2023, khi điều kiện thuận lợi và cầu tín dụng thấp, chúng tôi điều hành để duy trì thanh khoản dồi dào, điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, cũng ban hành thông tư để cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ; chỉ đạo các tổ chức tín dụng phải rà soát để giảm thủ tục hành chính cho vay, căn cứ trên cơ sở phương án khả thi, có khả năng trả nợ, không nhất thiết phải có tài sản đảm bảo.
Liên quan đến triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2%, ý kiến trước đó được các đại biểu nêu đó là tâm lý e ngại của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, Chính phủ cũng đã trình Quốc hội cho chuyển nguồn này, khoảng 24.000 tỷ đồng cho giảm thuế VAT và hiện nay Ngân hàng Nhà nước cũng đang trình Chính phủ để kiến nghị Quốc hội sửa đổi Nghị quyết 43, bỏ cụm từ "có khả năng phục hồi" để tiếp tục triển khai.
Đối với gói 120.000 tỷ đồng, bà Hồng cho biết, đây là gói tín dụng do 4 ngân hàng thương mại nhà nước tự nguyện tham gia để thực hiện mục tiêu 1 triệu căn hộ cho công nhân cũng như người có thu nhập thấp, chương trình thực hiện đến năm 2030 chứ không phải là chương trình chỉ giải quyết trong năm 2022.
Nguồn vốn do chính các ngân hàng huy động và lãi suất giảm từ 1,5% đến 2% do chính từ nguồn lực tài chính của các ngân hàng thương mại, điều này thể hiện sự tự nguyện và tinh thần trách nhiệm của 4 ngân hàng thương mại.
“Ngân hàng Nhà nước chỉ hướng dẫn về lãi suất áp dụng trong thời gian ưu đãi để triển khai thống nhất và hiện nay Bộ Xây dựng cũng đã có các hướng dẫn và ủy quyền cho các địa phương công bố danh mục dự án”- bà Hồng cho biết thêm “Đặc biệt là trong Luật Nhà ở trình Quốc hội kỳ này có điểm mới cho phép các doanh nghiệp mua nhà để có thể bố trí nhà ở cho công nhân, đây là điểm rất tích cực để gói này được tăng dư nợ giải ngân”.
"Vấn đề cuối cùng về tái cơ cấu ngân hàng yếu kém. Đây là việc tồn đọng và rất khó xử lý, mong đại biểu Quốc hội thấu hiểu, chia sẻ là tái cơ cấu một ngân hàng yếu kém trong điều kiện bình thường đã rất khó, trong điều kiện khó khăn hiện nay càng khó hơn"- Thống đốc Ngân hàng bày tỏ.
“Ngay từ khi nhận nhiệm vụ, Thủ tướng Chính phủ đã họp với ngân hàng đầu tiên và cũng yêu cầu phải tiến hành quyết liệt các giải pháp để tái cơ cấu. Cho đến nay, các ngân hàng yếu kém đã trình xin chủ trương các cấp có thẩm quyền và hiện Ngân hàng Nhà nước cũng như các bộ, các ngành dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đang thực hiện rất quyết liệt các bước để trước khi phê duyệt đề án chi tiết theo đúng chủ trương của cấp có thẩm quyền và theo đúng quy định của pháp luật”- bà Hồng khẳng định.