Thống nhất cách hiểu để khơi thông nguồn lực công

Trên cơ sở tờ trình của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giải thích và có kết luận về quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật Đầu tư công. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giao Chính phủ khẩn trương ban hành văn bản quy định, hướng dẫn chi tiết các nội dung này nhằm thống nhất cách hiểu, khơi thông nguồn lực công.

Luật Đầu tư công, Luật NSNN và các luật có liên quan khác không có quy định nào cấm sử dụng chi thường xuyên để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng.

Luật Đầu tư công, Luật NSNN và các luật có liên quan khác không có quy định nào cấm sử dụng chi thường xuyên để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng.

Theo kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Điều 6 của Luật Đầu tư công quy định việc phân loại dự án đầu tư công theo tính chất của dự án (tại khoản 1) và theo mức độ quan trọng, quy mô của dự án (tại khoản 2) để làm căn cứ áp dụng các quy định pháp luật trong việc xác định trình tự, thủ tục, thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, tổ chức thực hiện.

Điều 6 của Luật Đầu tư công không quy định nhiệm vụ, khoản chi nào phải dùng vốn đầu tư công, không quy định chỉ sử dụng vốn đầu tư công để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, mở rộng dự án đã đầu tư xây dựng; mua sắm tài sản; mua, sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị, máy móc.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội khẳng định, Luật Đầu tư công, Luật NSNN và các luật có liên quan khác không có quy định nào cấm sử dụng chi thường xuyên để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, mở rộng dự án đã đầu tư xây dựng; mua sắm tài sản; mua, sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị, máy móc.

Để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trên thực tế hiện nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ khẩn trương ban hành văn bản quy định, hướng dẫn chi tiết các nội dung này.

Trước đó, thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc đã ký Tờ trình của Chính phủ gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc giải thích quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư công để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các bộ, ngành, địa phương, có cách hiểu thống nhất, khơi thông nguồn lực công, đáp ứng hoạt động của bộ máy nhà nước.

Theo tờ trình, Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14 được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 13/6/2019 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2020, trong đó Khoản 1 Điều 6 về phân loại dự án đầu tư công quy định, "căn cứ vào tính chất, dự án đầu tư công được phân loại như sau: Dự án có cấu phần xây dựng là dự án đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng dự án đã đầu tư xây dựng, bao gồm cả phần mua tài sản, mua trang thiết bị của dự án; Dự án không có cấu phần xây dựng là dự án mua tài sản, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua, sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị, máy móc và dự án khác không quy định tại điểm a khoản này”.

Quá trình triển khai thực hiện đã phát sinh một số vướng mắc, nhất là cách hiểu chưa thống nhất giữa các cơ quan khác nhau về quy định này. Cụ thể, hiện đang có 02 cách hiểu khác nhau trong áp dụng pháp luật.

Cách hiểu thứ nhất, Luật Đầu tư công quy định việc quản lý nhà nước về đầu tư công; không có quy định hạn chế về đối tượng đối với các nhiệm vụ, dự án sử dụng nguồn kinh phí chi thường xuyên của NSNN (được thực hiện theo quy định của Luật NSNN).

Theo cách hiểu này, 02 luật (Luật Đầu tư công và Luật NSNN) quy định độc lập về phạm vi nhiệm vụ chi. Trong đó, Luật Đầu tư công áp dụng đối với nhiệm vụ, dự án sử dụng vốn đầu tư công có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và kế hoạch đầu tư công hằng năm; Luật NSNN áp dụng đối với các khoản chi đầu tư sử dụng nguồn NSNN nằm ngoài kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm (chẳng hạn nguồn kinh phí thường xuyên, nguồn vượt thu NSNN hằng năm thuộc thẩm quyền Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định, nguồn dự phòng ngân sách trung ương hằng năm thuộc thẩm quyền Thủ tướng Chính phủ quyết định, nguồn khác...) để sử dụng xây dựng, nâng cấp, sửa hàng rào, công sở, mua ô tô, máy tính, trang thiết bị, cấp bù lãi suất, bổ sung vốn điều lệ cho các doanh nghiệp nhà nước hoặc các dự án đầu tư mới chưa có trong kế hoạch đầu tư công do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định (từ nguồn vượt thu), Thủ tướng Chính phủ quyết định (từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương).

Cách hiểu thứ hai, theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư công, toàn bộ các dự án có cấu phần xây dựng để xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng dự án đã đầu tư xây dựng (thuộc hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất) và toàn bộ các dự án mua tài sản, mua và sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị, máy móc (không có cấu phần xây dựng) thuộc đối tượng của Luật Đầu tư công, nên phải bố trí vốn đầu tư công để thực hiện.

Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, do Luật Đầu tư công ban hành (năm 2019) sau Luật NSNN (năm 2015), nên trường hợp này phải tuân thủ quy định của Luật Đầu tư công. Theo đó, toàn bộ hoạt động đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng, mua tài sản, mua và sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị, máy móc phải sử dụng vốn đầu tư công.

Theo cách hiểu này có vướng mắc khi hoạt động mua sắm tài sản; mua, sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị, máy móc (không có cấu phần xây dựng); hoạt động cải tạo, nâng cấp, xây mới các công trình, hạng mục công trình, chuyển đổi số, công nghệ thông tin... từ nguồn vượt thu, dự phòng là các hoạt động phát sinh cần thiết và đa dạng, thường không lường được trước và khó kế hoạch hóa theo giai đoạn 5 năm.

Trường hợp các hoạt động trên phải sử dụng vốn đầu tư công, khi đó sẽ phải đưa vào kế hoạch đầu tư trung hạn 5 năm là không hợp lý, không kịp thời, hạn chế đa dạng hóa nguồn vốn thuộc NSNN, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các cơ quan, đơn vị và quyền tiếp cận sử dụng dịch vụ công của Nhân dân. Trên thực tế, vốn đầu tư công không bố trí hoặc bố trí rất hạn chế cho các hoạt động này của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương.

Trần Huyền

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/thong-nhat-cach-hieu-de-khoi-thong-nguon-luc-cong.html