Trở lại chuyện chính tả 'xán lạn' hay 'sáng lạn'

Độc giả Trần Thảo hỏi: 'Tôi là giáo viên Ngữ văn. Trong quá trình giảng dạy, tôi và đồng nghiệp có chỗ khúc mắc về từ ngữ, chưa được thống nhất. Về chính tả, đồng nghiệp tôi cho rằng viết đúng phải là 'sáng lạn', vì đây là từ ghép Việt - Hán, với hai yếu tố tạo thành là 'sáng' (Việt), 'lạn' (Hán). Mặt khác, đồng nghiệp tôi còn cho biết chưa tìm thấy tài liệu, từ điển nào đáng tin tưởng để khẳng định 'xán lạn' là đúng. Tuy nhiên, tôi xem một số bài viết chia sẻ trên mạng lại nói rằng 'xán lạn' là đúng, vì xán lạn là hai yếu tố Hán - Hán.

Đồng nghiệp tôi cũng đưa ra quan điểm không nên dùng từ Hán - Hán, vì nếu tiếng Việt có từ thay thế thì nên dùng từ Việt.

Nội dung trên đây cũng là một bài tập trong phần thực hành tiếng Việt chương trình Ngữ văn bộ Cánh Diều, hiện các giáo viên vẫn chưa thống nhất ý kiến. Bởi vậy, rất mong chuyên mục “Cà kê chuyện chữ nghĩa” giải đáp giúp chúng tôi".

Trả lời: Trên chuyên mục “Cà kê chuyện chữ nghĩa” (Báo Thanh Hóa thứ bảy, ngày 1/4/2023), chúng tôi đã có bài viết “Xán lạn, sán lạn, sáng lạn, hay sáng lạng?”, trong đó khẳng định cách phải viết xán trong xán lạn 燦爛 mới là chuẩn chính tả. Nếu nói rằng “chưa tìm thấy tài liệu, từ điển nào đáng tin tưởng để khẳng định “xán lạn” là đúng”, là không chính xác, bởi chúng ta có thể dẫn ra hàng loạt cứ liệu.

Hán ngữ đại từ điển (La Trúc Phong chủ biên - Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã - 1993), có ghi nhận từ xán lạn 燦爛 và giảng 4 nghĩa, trong đó có hai nghĩa được dùng trong tiếng Việt là:

-Nghĩa 1: “minh lượng mạo; tiên minh mạo - 明亮貌;鮮明貌” nghĩa là “vẻ rực rỡ, tươi đẹp”.

-Nghĩa 4: “hình dung sự tình hoặc sự nghiệp huy hoàng; mĩ hảo - 形容事情或事業輝煌;美好”, nghĩa là “hình dung sự việc hoặc sự nghiệp huy hoàng; tốt đẹp”.

Về nghĩa của từng yếu tố cấu tạo từ, Hán ngữ đại từ điển giảng như sau:

-“xán 燦: vẻ sáng sủa; tươi đẹp; vẻ tươi sáng, diễm lệ” [minh lượng mạo; tiên diễm mạo; tiên minh mạo - 明亮貌; 鮮艷貌;鮮明貌]

-“lạn 爛: sáng tỏ; sáng sủa; sắc thái mỹ lệ.” [quang minh; minh lượng; sắc thái huyến lệ - 光明;明亮; 色彩絢麗].

Qua một số ngữ liệu mà Hán ngữ đại từ điển ghi nhận, cho thấy, từ xán lạn đã xuất hiện trong thư tịch cổ từ đời Tấn.

Về các tài liệu tiếng Việt, thì hầu hết các cuốn từ điển chúng tôi có trong tay như Việt Nam tự điển (Hội khai trí Tiến Đức - 1931); Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức - 1974); Từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên - 1968)... đều ghi nhận cách viết xán lạn, chứ không phải sáng lạn. Cá biệt có cuốn Việt Nam tân tự điển (Thanh Nghị) ghi nhận và lấy ví dụ: “sáng - lạng • tt. Rực-rỡ <>Tương - lai sáng lạng”.

Đáng chú ý, Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên - Trung tâm Từ điển học Vietlex - Bản có chú chữ Hán cho những từ Hán Việt - NXB Đà Nẵng, 2016) - một cuốn từ điển có uy tín nhất hiện nay đã giảng nghĩa và lấy ví dụ như sau:

“xán lạn • 燦爛 t. rực rỡ, chói lọi. tiền đồ xán lạn ~ Một luồng tư tưởng lạc quan như vụt thổi vào tâm hồn nàng những sự sung sướng bồng bột, không cội rễ. Nàng thấy tương lai hiện ra với đủ các trạng thái xán lạn. (Khái Hưng)”.

Dù không chuyên về chính tả, nhưng Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học Vietlex đã có thêm chỉ dẫn: “nên nói và viết là xán lạn, không nên dùng sáng lạn (sai khá phổ biến)”.

Trong tiếng Việt, có một số từ kết hợp Hán - Nôm hoặc Nôm - Hán giống như đồng nghiệp của độc giả Trần Thảo nói (thực ra gọi là Nôm nhưng xét về gốc thì đó là những từ với âm đọc đã được Việt hóa). Ví dụ: binh lính (binh 兵 (Hán) + lính (Nôm); mến mộ: mến (Nôm) + mộ 慕 (Hán)... Tuy nhiên, với từ “xán lạn” lại khác.

Xán lạn là từ Việt gốc Hán, thuộc loại ghép đẳng lập, mà nghĩa lịch đại của từng yếu tố được hiểu: xán 燦 có nghĩa là tươi sáng, rực rỡ, chói lọi; mà lạn 爛 cũng có nghĩa là rực rỡ, tươi sáng. Từ xán lạn không chỉ xuất hiện trong Hán văn cổ, mà hiện vẫn được dùng trong Hán ngữ hiện đại, trong khi những từ như binh lính, mến mộ... chỉ có trong tiếng Việt.

Xét phép cấu tạo chữ Hán, thì xán lạn là những chữ hình thanh. Cụ thể, cả hai chữ xán 燦 và lạn 爛 đều có bộ hỏa 火 (lửa) chỉ nghĩa (biểu ý ánh sáng), còn xan 粲 và lan 闌 chỉ thanh (tức âm đọc). Theo đây, vì biểu thanh của chữ xán 燦 trong xán lạn là chữ xan 粲, nên không thể đọc thành sáng được. Mặt khác, khi viết “xán” trong xán lạn, thì xán biểu nghĩa “sáng” nhưng là sáng tươi, sáng đẹp; còn viết “sáng lạn” thì chữ sáng này gốc Hán là chữ sảng 爽, chỉ có nghĩa là biểu thị “sáng” đối với “tối” chứ không phải là sáng mà đẹp.

Trong thực tế, XÁN LẠN và sán lạn, sáng lạn, sáng lạng là những cách phát âm và cách viết na ná như nhau, nên khi đặt bút, nếu người viết không ngưng lại chút ít để cân nhắc, thì rất dễ nhầm lẫn. Mặt khác, trong cảm thức ngôn ngữ của người Việt, XÁN LẠN là từ mà cả hai yếu tố cấu tạo từ đều chưa được Việt hóa, và không có khả năng độc lập trong hành chức. Bởi vậy, sự ghi nhận về cách viết chuẩn chính tả thông qua hiểu nghĩa từ nguyên là rất hạn chế. Điều này chính là nguyên nhân xảy ra hiện tượng “Việt hóa”, “Nôm hóa” cách phát âm XÁN thành sáng, gợi sự liên tưởng tới nghĩa của từ, là sáng sủa, tươi đẹp. Cách viết “sáng lạn” tuy không sai về nghĩa của từng yếu tố cấu tạo từ, nhưng xét về từ nguyên và chuẩn chính tả, thì nó lại không ổn.

Cuối cùng, về quan điểm “không nên dùng từ Hán - Hán, vì nếu tiếng Việt có từ thay thế thì nên dùng từ Việt” mà đồng nghiệp của độc giả Trần Thảo đưa ra, theo chúng tôi cũng không cần thiết. Bởi vì, không có lý do gì để chúng ta phải phân biệt đối xử giữa từ Hán Việt và “thuần Việt” (lưu ý, để xác định được cái gọi là “thuần Việt” này không hề đơn giản). Vấn đề nằm ở chỗ từ ngữ đó có phù hợp hay không, có diễn đạt được điều cần nói hay không, chứ không phải là Hán Việt hay thuần Việt.

Như vậy, trong hai cách viết xán lạn và sáng lạn (thực ra là 4 cách viết cùng tồn tại trong thực tế: XÁN LẠN, sán lạn, sáng lạn, sáng lạng), thì chỉ có một cách viết chuẩn xét theo nghĩa từ nguyên, được số đông thừa nhận, và hầu hết các cuốn từ điển tiếng Việt ghi nhận, đó là XÁN LẠN.

Hoàng Tuấn Công (CTV)

Nguồn Thanh Hóa: https://vhds.baothanhhoa.vn/tro-lai-chuyen-chinh-ta-xan-lan-hay-sang-lan-33793.htm