Ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp: Cần gỡ rào cản pháp lý

Phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp nước ta quá chậm, khoảng cách với thế giới có xu hướng doãng ra. Cản trở chính là nhận thức.

Thông tin được TS. Cao Đức Phát - Chủ tịch HĐQT Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) - đưa ra tại Diễn đàn: "Thành tựu và định hướng ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Báo Nông nghiệp Việt Nam tổ chức ngày 5/10/2024, tại Hà Nội.

Cản trở chính là nhận thức

Diễn đàn là một trong những hoạt động quan trọng nhằm thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Toàn cảnh diễn đàn

Toàn cảnh diễn đàn

Diễn đàn lần này là một bước quan trọng nhằm phổ biến rộng rãi những thành tựu công nghệ sinh học đã ứng dụng vào nông nghiệp. Các thành tựu này không chỉ giúp tăng năng suất, chất lượng nông sản mà còn góp phần bảo vệ môi trường, giảm thiểu sử dụng hóa chất trong canh tác. Trong tương lai, công nghệ sinh học sẽ tiếp tục đóng vai trò then chốt trong việc giúp ngành nông nghiệp Việt Nam đối phó với những thách thức từ biến đổi khí hậu và đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế.

Diễn đàn lần này được tổ chức cũng nhằm đánh giá các thành tựu nổi bật trong việc ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp, đồng thời thảo luận về những định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đối mặt với các thách thức như biến đổi khí hậu.

Phát biểu khai mạc tại Diễn đàn, TS. Cao Đức Phát cho hay, công nghệ sinh học là một công cụ khoa học mạnh mẽ trong những thập kỷ gần đây, làm thay đổi diện mạo của ngành nông nghiệp thế giới. Chế phẩm sinh học được sử dụng rộng rãi trong cả trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản như một giải pháp hiệu quả để phát triển bền vững.

Nuôi cấy mô đã trở thành ngành công nghiệp ở nhiều nước để nhân giống cây trồng sạch bệnh và chất lượng ổn định. Công nghệ gen được áp dụng rộng rãi trong chọn tạo giống. Đã có đến gần 200 triệu ha trồng cây biến đổi gen, chiếm 78% diện tích gieo trồng đậu tương, 64% bông, 26% ngô, 24% cải dầu toàn cầu. Công nghệ sinh học đã đem lại nhiều lợi ích, trong đó góp phần tăng mạnh năng suất nhiều loại cây trồng, nổi bật là ngô, đỗ tương, và bông, đồng thời cho phép giảm lượng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật...

Trong thời gian qua, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã quan tâm chỉ đạo nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học. Công nghệ sinh học được sử dụng trong nhiều lĩnh vực nông nghiệp nước ta. Nổi bật là việc sử dụng các chế phẩm sinh học, kit chẩn đoán bệnh, kỹ thuật nuôi cấy mô. Từ năm 2014, cây ngô và đậu tương biến đổi gen được phép trồng và sử dụng ở Việt Nam sau quá trình dài khảo nghiệm chặt chẽ theo các chuẩn mực quốc tế.

Năng lực phát triển công nghệ sinh học được nâng cao, cả về nhân lực, trang thiết bị và thể chế. Lợi ích của việc sử dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp là không thể phủ nhận. Trong khi, không có bằng chứng về tác hại như một số người lo ngại. Tuy nhiên, điều đáng tiếc lại là việc phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp nước ta quá chậm, khoảng cách với thế giới có xu hướng doãng ra, không đạt các mục tiêu Đảng và Chính phủ đề ra. Cản trở chính là nhận thức.

Trên thế giới xuất hiện nhiều xu hướng mới trong phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học như kết hợp công nghệ vi sinh và nano trong chế tạo các chế phẩm sinh học đạt hiệu quả cao. Công nghệ tế bào được sử dụng để sản xuất thương mại thịt, cá... Công nghệ chỉnh sửa gen được sử dụng ngày càng rộng rãi thay cho chuyển gen. Sự kết hợp giữa công nghệ sinh học và công nghệ số, AI cho phép nâng cao hiệu quả nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học. Để không tụt hậu, nước ta cần nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt và ứng dụng các xu hướng mới này.

"Khác với 20 năm trước, nay nước ta đã có được đội ngũ khá đông đảo các nhà khoa học, kỹ thuật viên được đào tạo khá bài bản, nhiều phòng thí nghiệm được trang bị khá hiện đại. Vấn đề chính là phải quán triệt và nghiêm túc thực hiện các chủ trương do Đảng, Chính phủ đề ra, xóa bỏ mặc cảm, đầu tư thỏa đáng, tháo gỡ các rào cản pháp lý để công nghệ sinh học Việt Nam cất cánh cùng thế giới", TS. Cao Đức Phát thông tin.

Cần cái bắt tay của các nhà

Chia sẻ tại diễn đàn, PGS.TS Nguyễn Hữu Ninh - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) - cho biết, để vượt qua những thách thức này, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ từ Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích áp dụng công nghệ sinh học vào sản xuất và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững.

Ngoài ra, cần xây dựng chính sách đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về công nghệ sinh học và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dự án nghiên cứu mới. Việc xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam dựa trên nền tảng công nghệ sinh học cũng là một yếu tố quan trọng để gia tăng giá trị và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.

Tại diễn đàn, nhiều chuyên gia đã chia sẻ về các thành tựu nổi bật, trong đó đáng chú ý là việc cải tiến giống cây trồng thông qua ứng dụng công nghệ sinh học. Nhiều giống cây mới đã được phát triển với khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn, giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

Công nghệ sinh học cũng đã được ứng dụng vào việc bảo quản nông sản sau thu hoạch, giảm thiểu tổn thất và gia tăng giá trị xuất khẩu. Ngoài ra, các giải pháp công nghệ vi sinh đã được triển khai rộng rãi, giúp cải thiện chất lượng đất và giảm thiểu việc sử dụng phân bón hóa học, từ đó nâng cao tính bền vững của hệ thống canh tác.

Theo TS. Đỗ Tiến Phát - Trưởng phòng Công nghệ tế bào thực vật, Viện Công nghệ sinh học, để đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, ngành nông nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học. Những tiến bộ như công nghệ chỉnh sửa gen (CRISPR) hay các giải pháp nông nghiệp chính xác sẽ giúp nông nghiệp Việt Nam tăng tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đồng thời giúp ngành này thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu. Việc ứng dụng công nghệ sinh học không chỉ là xu hướng tất yếu mà còn là chìa khóa để Việt Nam xây dựng một nền nông nghiệp bền vững và cạnh tranh cao.

Chia sẻ tại diễn đàn về vai trò công nghệ sinh học trong bối cảnh ngành nông nghiệp thế giới đang phải đối diện với những thách thức to lớn của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, bà Sonny Tababa - Giám đốc Công nghệ Sinh học CropLife châu Á - đánh giá cao định hướng và những chương trình hành động của Chính phủ trong việc thúc đẩy ứng dụng các giải pháp cây trồng công nghệ sinh học, thể hiện qua nhiều dự án nghiên cứu khoa học trọng điểm, nỗ lực hợp tác chuyển giao công nghệ cũng như quá trình rà soát và hoàn thiện quy trình quản lý để phát huy tối đa lợi ích của các giải pháp này.

Việt Nam hiện là một trong những nước có khung pháp lý đối với cây trồng biến đổi gen tiên tiến nhất trên thế giới. Tổ chức CropLife mong muốn sẽ tiếp tục được đồng hành trong những chương trình hợp tác công tư để giới thiệu những thế hệ cây trồng công nghệ sinh học tiếp theo tới nông dân trong nước, giúp họ có thêm nhiều công cụ canh tác cải tiến để thực hiện sứ mệnh quan trọng của mình - đảm bảo an ninh lương thực và thúc đẩy nông nghiệp bền vững.

Nguyễn Hạnh

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/ung-dung-cong-nghe-sinh-hoc-vao-san-xuat-nong-nghiep-can-go-rao-can-phap-ly-350407.html