Ủy ban Kinh tế Quốc hội cho ý kiến thẩm tra dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam

Theo Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải (GTVT) Nguyễn Danh Huy, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam sẽ được lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trong năm 2025 - 2026 và khởi công cuối năm 2027; phấn đấu cơ bản hoàn thành toàn tuyến trong năm 2035.

Toàn cảnh cuộc họp. Nguồn: Cổng TTĐT Quốc hội.

Toàn cảnh cuộc họp. Nguồn: Cổng TTĐT Quốc hội.

Ủy ban Kinh tế của Quốc hội vừa tổ chức phiên họp toàn thể lần thứ 20 để thẩm tra chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam vào chiều muộn ngày 4/11.

Theo lịch trình dự kiến, ngày 6/11 Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến về dự án trước khi trình Quốc hội vào ngày 13/11, thảo luận tại hội trường vào ngày 20/11 và dự kiến biểu quyết vào ngày 30/11.

Phấn đấu hoàn thành toàn tuyến trong năm 2035

Trình bày tờ trình dự án tại phiên họp, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy cho biết, để sớm hoàn thành tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, Chính phủ kiến nghị Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.

Cụ thể, điểm đầu tuyến tại TP Hà Nội (ga Ngọc Hồi), điểm cuối tại TP HCM (ga Thủ Thiêm). Tổng chiều dài tuyến khoảng 1.541 km.

Dự án đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, TP HCM.

Về quy mô đầu tư, xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435 mm, tốc độ thiết kế 350 km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục; xây dựng 23 ga khách, 5 ga hàng; đường sắt tốc độ cao vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết.

Trong quá trình vận hành khai thác, trên cơ sở đề xuất của các địa phương, Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định đầu tư bổ sung một số vị trí nhà ga tại các khu đô thị có nhu cầu vận tải lớn.

Sơ bộ nhu cầu sử dụng đất khoảng 10.827 ha. Hình thức đầu tư là đầu tư công. Sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng hơn 1,7 triệu tỷ đồng (tương đương 67,34 tỷ USD) từ nguồn vốn từ ngân sách Trung ương bố trí theo các kỳ trung hạn, vốn góp của các địa phương, vốn huy động có chi phí thấp và ít ràng buộc,...

Trong quá trình xây dựng và vận hành, sẽ kêu gọi doanh nghiệp tham gia đầu tư các khu dịch vụ, thương mại tại các ga; đầu tư thêm phương tiện để khai thác khi có nhu cầu.

Về tiến độ thực hiện, sẽ lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trong năm 2025-2026; khởi công vào cuối năm 2027; phấn đấu cơ bản hoàn thành toàn tuyến trong năm 2035.

Tinh thần phải làm chủ về công tác vận hành và xây dựng hạ tầng dự án

Tại phiên họp, các đại biểu bày tỏ đồng tình với sự cần thiết đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam. Các đại biểu cũng đóng góp thêm nhiều ý kiến như: về việc phân bổ nhu cầu vận tải đối với các phương thức vận tải trên hành lang Bắc – Nam; hiệu quả kinh tế xã - hội của dự án đối với các địa phương có tuyến đường đi qua cùng các vùng lân cận,...

Bên cạnh đó, các đại biểu cũng đưa ra ý kiến về các dự báo doanh thu, tăng trưởng doanh thu, phương án tài chính của dự án; so sánh với các tuyến tương tự, đối chiếu với kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới; đưa ra các giải pháp đảm bảo hiệu quả trong triển khai dự án.

Về phương án đầu tư dự án, các đại biểu đã thảo luận các nội dung cụ thể như: quy mô đầu tư, phương án khai thác, hướng tuyến, vị trí nhà ga, khung tiêu chuẩn, vấn đề áp dụng công nghệ, làm chủ công nghệ… để hoàn thiện phương án đầu tư bảo đảm khả thi, tiết kiệm, hiệu quả.

Có ý kiến cho rằng, vừa qua, Việt Nam đã đầu tư nhiều dự án đường bộ cao tốc trên cả nước, tuy nhiên, việc triển khai vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Đối với dự án đường sắt tốc độ cao, phải tiếp cận công nghệ hoàn toàn mới, phức tạp, cần có phương pháp triển khai hợp lý để đạt hiệu quả tối ưu.

Việc đào tạo nguồn nhân lực, phát triển công nghiệp đường sắt, mô hình vận tải doanh nghiệp, sự kết nối của tuyến đường với hệ thống đường đô thị, cơ chế, chính sách đặc thù triển khai thực hiện dự án… cũng là các vấn đề được các đại biểu quan tâm.

Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy phát biểu tại phiên họp. Nguồn: Cổng TTĐT Quốc hội.

Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy phát biểu tại phiên họp. Nguồn: Cổng TTĐT Quốc hội.

Sau khi tiếp thu ý kiến của các đại biểu tại phiên họp, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy cho biết, đây là dự án rất lớn, hồ sơ của dự án đã tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, chia làm nhiều nhóm vấn đề. Cùng với đó là 163 ý kiến của các Ủy viên Trung ương tại Hội nghị Trung ương 10 vừa qua.

"Chính vì thế, Bộ GTVT rất cầu thị. Chúng tôi tiếp thu tối đa các ý kiến, đây là những ý kiến rất tâm huyết, có những vấn đề chúng tôi chưa lường hết," Thứ trưởng chia sẻ và cho biết, phát triển công nghiệp đường sắt tốc độ cao đòi hỏi nghiên cứu rất cẩn trọng, chuyển giao công nghệ cũng vậy.

Thứ trưởng dẫn chứng ví dụ điển hình là Trung Quốc. Với quy mô thị trường đường sắt rất lớn, khoảng 165.000km, nước này có điều kiện để đầu tư, ứng dụng, thử nghiệm, phát triển và làm chủ hoàn toàn công nghệ. Mỗi năm quốc gia này dành 2,2 tỷ USD cho nghiên cứu đường sắt.

Còn tại Việt Nam, theo Thứ trưởng Huy, quy mô thị trường đường sắt tốc độ cao không lớn, công nghiệp đường sắt Việt Nam cần được định hướng phát triển theo chiều rộng, đáp ứng nhu cầu của đường sắt truyền thống, đường sắt đô thị và một phần của đường sắt tốc độ cao.

"Các chuyên gia quốc tế cho rằng, thị phần phải trên 10.000km thì làm chủ công nghệ mới đảm bảo hiệu quả. Tuy nhiên, trong xây dựng thì tiến tới chúng ta phải làm chủ toàn bộ. Đã có đề án phân công nhiệm vụ, Bộ Công thương làm gì, Bộ Xây dựng làm gì... và trong đề án cũng đã đề cập đến kinh phí đào tạo nhân lực để làm chủ. Bên cạnh đó, việc chuyển giao máy móc, thiết bị thế nào cho hiệu quả cũng đã được tính toán kỹ lưỡng để tránh lãng phí," Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy nói.

Cũng theo Thứ trưởng Huy, hiện nay, chỉ có 4 nước trên thế giới xây dựng bộ tiêu chuẩn đường sắt tốc độ cao, các quốc gia còn lại đều vận dụng theo các tiêu chuẩn chung trên thế giới. Hiện, Bộ GTVT không định hướng theo một công nghệ nhất định nào, thay vào đó, Bộ đã tham khảo một số tiêu chuẩn tiên tiến như tiêu chuẩn châu Âu vì có tính mở.

Thứ trưởng cũng cho rằng, đối với đội ngũ tư vấn dự án sẽ huy động từ nước ngoài, còn với những dịch vụ, hàng hóa mà Việt Nam làm chủ được thì phải sử dụng nguồn nội địa.

Liên quan đến vấn đề nội địa hóa, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy đã từng nhấn mạnh nội dung này trong cuộc họp báo trao đổi, cung cấp thông tin về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam hồi đầu tháng 10 vừa qua.

Thứ trưởng đánh giá, với năng lực, trình độ ở trong nước hiện nay, nếu được chuyển giao công nghệ và có một số cơ chế chính sách thích hợp, Việt Nam có thể làm chủ toàn bộ công nghiệp xây dựng, tự chủ toàn bộ công tác vận hành, bảo trì và từng bước nội địa hóa sản xuất một số linh kiện, phụ tùng thay thế.

"Trong những năm qua, doanh nghiệp Việt đã tích lũy đủ năng lực cả về kinh tế lẫn kỹ thuật trong việc thực hiện các dự án hạ tầng giao thông. Từ thiếu kinh nghiệm, các doanh nghiệp đã tự thiết kế, thi công nhiều công trình trọng điểm quốc gia. Điển hình là cầu dây văng Mỹ Thuận 2 được các nhà thầu Việt thực hiện 100% từ thiết kế đến thi công; hay dự án đường bộ cao tốc Bắc – Nam với các hạng mục xây cầu, hầm đòi hỏi kỹ thuật cao đều do các doanh nghiệp Việt đảm nhiệm," Thứ trưởng Huy chỉ ra và bày tỏ tin tưởng, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng nắm bắt cơ hội góp phần vào "siêu dự án" này.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh phát biểu kết luận. Nguồn: Cổng TTĐT Quốc hội.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh phát biểu kết luận. Nguồn: Cổng TTĐT Quốc hội.

Phát biểu kết luận, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh góp ý thêm một số vấn đề. Về tốc độ, ông Thanh cho biết, các đại biểu đều thống nhất tốc độ 350km/h vì nếu thấp hơn sẽ không phù hợp với xu hướng thế giới.

Về công năng, điều cần bàn là có nên kết hợp cả khách và hàng hay không vì nếu kết hợp 2 phương thức sẽ làm tăng tổng mức đầu tư. Nêu ý kiến cá nhân, ông Thanh cho rằng nên tách chở khách, còn chở hàng thì dùng đường thủy, đường sắt hiện hữu, qua đó phương án tài chính sẽ hiệu quả hơn.

Với việc một số địa phương đề nghị bổ sung thêm ga tàu, ông Thanh đề nghị cơ quan soạn thảo nên cân nhắc để đảm bảo cứ 50-70km có một nhà ga.

Doanh nghiệp Việt sẵn sàng đóng góp vào các hạng mục xây dựng đường sắt cao tốc

Tại hội nghị với các doanh nghiệp lớn do Thường trực Chính phủ tổ chức hồi tháng 9 vừa qua, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hòa Phát Trần Đình Long nhấn mạnh: "Hòa Phát sẵn sàng trong việc tham gia đấu thầu cung cấp thép cho dự án. Hòa Phát đủ năng lực để sản xuất thép cho đường ray tốc độ cao tại Việt Nam".

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) cũng đã đề xuất thành lập liên doanh phát triển công nghiệp đường sắt. Trong đó, cho phép VNR cùng với các đối tác nước ngoài thành lập liên doanh với tỷ lệ vốn góp chi phối. Các chính sách, nguyên tắc ràng buộc sẽ được xây dựng ngay từ khi đấu thầu để giúp các doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng vật tư, phụ kiện, sản phẩm từng công đoạn.

"Liên doanh này không chỉ phục vụ cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam mà là kế hoạch dài hơi của VNR cho chiến lược tại khoảng 10 dự án đường sắt đô thị tại TP HCM và Hà Nội đang được lên kế hoạch triển khai trong giai đoạn từ nay đến năm 2035," đại diện VNR nói.

Tập đoàn Đèo Cả, đại diện cho các đơn vị thi công các gói thầu lớn thuộc dự án đường cao tốc Bắc - Nam đóng góp phương án chia việc tổ chức thực hiện dự án thành hai hợp phần. Hợp phần một bao gồm các hạng mục cầu, đường, hầm cần giao cho doanh nghiệp trong nước thực hiện tương tự các dự án đường bộ cao tốc vừa qua. Hợp phần 2 bao gồm phần đầu máy toa xe, hệ thống thông tin tín hiệu,… giao cho doanh nghiệp trong nước liên danh với doanh nghiệp nước ngoài.

Thu Thảo

Theo Cổng TTĐT Quốc hội

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/uy-ban-kinh-te-quoc-hoi-cho-y-kien-tham-tra-du-an-duong-sat-cao-toc-bac-nam-35294.html