Văn học về đề tài đô thị công nghiệp và môi trường sinh thái ở vùng đất cảng
Văn chương khi bị khuôn vào bất cứ một đề tài cụ thể nào rất khó có tác phẩm hay. Khi không quá chăm chú và câu nệ vào nó thì có khi tư tưởng nghệ thuật của nhà văn qua đề tài ấy lại được bật ra.
Viết về công nghiệp và môi trường, một đề tài tưởng giản đơn mà khó thành công. Văn chương Hải Phòng một thuở từng gắn với đề tài này do tác động của nhịp sống công nghiệp, đô thị hóa.
Người đọc từng ám ảnh về một Hải Phòng, mảnh đất của thợ thuyền, phu phen và những con người dưới đáy lam lũ oằn mình qua giông bão và khổ đau trên những trang văn của Nguyên Hồng, nhà văn của những người cùng khổ với tiểu thuyết đầu tay “Bỉ vỏ” (1937) và bộ tiểu thuyết 4 tập “Cửa biển” (1961-1976) đồ sộ của ông. Chính khả năng đi sâu thâm nhập thực tế và bức tranh sinh động về đời sống công nghiệp ở Hải Phòng đã tạo nên chất liệu cho những trang văn của Nguyên Hồng lấp lánh sự sống, dẫu đó là cuộc sống lầm than, khốn khổ của những con người cần lao với đầy mồ hôi, nước mắt và nhọc nhằn tranh đấu. Ở đó, Nguyên Hồng viết với giọng điệu vừa xót thương, phẫn uất, vừa hào sảng.
Năm 1971, thi sĩ Lưu Quang Vũ sau những năm tháng sống và gắn bó với Hải Phòng, đi về trên những chuyến tàu chợ thăm những người bạn Hải Phòng của mình đã vẽ nên bức tranh bằng thơ u buồn mà tuyệt đẹp về thành phố cảng than bụi của những người công nhân bốc vác, những người thủy thủ tàu viễn dương quả cảm yêu lao động cuồng nhiệt mê say: “Hải Phòng đón tôi bằng sừng sững khói cao/ Tiếng búa tiếng choang tiếng goòng tiếng két/ Tiếng xô đá tiếng gò tôn tiếng bánh xe nghiền nát/ Than bụi bay nắng cuồng nhiệt khắp nơi/ Tất cả lấm đầu và nhễ nhại mồ hôi.../ Ai cũng tựa hòn núi cao im lặng/ Giấu trong lòng bao thác cuộn suối trong/ Sắc nhọn, cộc cằn/ Bao la, nhỏ hẹp/ U tối mà sáng suốt/ Từng trải mà thơ ngây/ Những người bốc vác/ Mang trên vai cuộc đời/ Dạy tôi cách nhìn cách nghĩ/ Trên cửa biển chói chang không chỗ nghỉ” (“Những người bạn khuân vác”). Một cuộc sống nhộn nhịp với tiếng hú cửa sông, tiếng cây buồm kéo mạnh, tiếng còi vang lảnh trên bến tàu, cảng cá rồi bụi than, xi măng khói lửa, trùng khơi và những con người quả cảm, phóng khoáng, yêu đời đã lấp đầy sự bế tắc và trống trải của Lưu Quang Vũ, đem đến cho thơ Vũ một sinh khí mới lúc bấy giờ.
Đó là Hải Phòng bụi bặm, lầm lũi mà kiên gan cần lao của những năm khói lửa chiến tranh phản chiếu trong văn học. Còn trong thời hậu chiến và thời kỳ đổi mới, đề tài về công nghiệp và môi trường tiếp tục được khai thác ở những chiều kích khác nhau trong văn chương Hải Phòng.
Thành phố cửa bể, môi trường sinh thái biển những năm sau chiến tranh trở nên trầm tư trong cái nhìn đầy triết luận của nhà thơ Thi Hoàng từ tập “Nhịp sóng” (1976) đến trường ca “Ba phần tư trái đất” (1989).
Đề tài đô thị công nghiệp được tỏa bóng trên những trang văn viết về thân phận và khát vọng sáng tạo của những kiến trúc sư trong tập truyện ngắn “Cánh đồng mơ mộng” của nhà văn Bão Vũ, hay số phận và phẩm tính những con người lao động trên những trang tiểu thuyết “Chuyến hàng mưa” của nhà văn công nhân Nguyễn Quốc Hùng. Văn xuôi Hải Phòng thời kỳ này không còn mang tính sử thi với những đại tự sự mà đi vào những vấn đề nhân sinh thường nhật, đời thường chuyển động cùng những biến động của thời cuộc, con người.
Mặt khác, những trang viết về môi trường sinh thái trong văn chương Hải Phòng thời kỳ đổi mới cũng khá đa dạng.
Biển, một môi sinh lớn gắn với thành phố đã thấm đẫm trong hàng loạt tiểu thuyết của nhà văn Đình Kính gắn với những câu chuyện về thân phận cuộc đời những người lính thủy (“Sóng cửa sông”, “Đảo mùa gió”, “Người của biển”, “Lính thủy”, “Biển có gai”, “Sóng chìm”). Biển vừa là thiên nhiên, vừa là chứng nhân cho cuộc sống tranh đấu vật lộn của họ. Những làng biển, làng đảo quanh co còn được tái hiện qua thơ của Thi Hoàng (“Ba phần tư trái đất”), của Hồ Anh Tuấn (“Giấc mơ của biển”) và trên cả những trang thơ viết cho thiếu nhi của nhà thơ Hoài Khánh (“Dắt biển lên với trời”).
Không chỉ viết về biển, thi sĩ Mai Văn Phấn đã mở rộng biên độ cho thơ sinh thái Hải Phòng về một thiên nhiên khoáng đạt mà giản dị thông qua các biểu tượng nghệ thuật cơ bản như bầu trời, đất đai, nước và cây cỏ. Thế giới tự nhiên trong thơ Mai Văn Phấn thật gần gũi, trong trẻo, bao bọc giao hòa với con người để con người nhận ra mình đích thực là một phần của tự nhiên, được hóa thân vào thiên nhiên, học từ thiên nhiên những bài học lớn lao vô cùng: “Anh nhào lộn giữa gió và nước/ tôm cá và mặt trời/ rong rêu và mây trắng/ ký ức và mộng tưởng” (“Hình đám cỏ”) hoặc “Tôi lặng yên làm cát đá/ Ngây ngô trong mưa nắng/ Bóng đêm trinh bạch” (“Tĩnh lặng”). Trong thơ Mai Văn Phấn, thiên nhiên không còn là nền cảnh hay là đối tượng nhân vật được nhân cách hóa để con người trò chuyện mà là nhân tố cấu thành hòa làm một với con người không thể tách rời. Những dòng thơ từ mạch cảm hứng trào dâng với chiêm nghiệm đầy triết lý: Con người được sinh ra từ thiên nhiên, được tái sinh nhờ nó và đừng nên hủy diệt nó bởi những tham vọng của mình, mỗi sinh thể thiên nhiên cần được con người đối xử bình đẳng và công bằng.
Thơ về sinh thái của Mai Văn Phấn là một đối trọng với đề tài về nhịp sống đô thị, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra. Nếu con người chỉ biết hăm hở duy ý chí đi lên công nghiệp hóa mà quên đi cảnh quan môi sinh hay tệ hại hơn là phá nát, hủy diệt nó thì chắc chắn con người sẽ bị trả giá thích đáng. Thi sĩ đã cho chúng ta những rung cảm say mê về một sự thanh lọc và cân bằng của con người, hãy chầm chậm sống để thấy thế giới tự nhiên quý giá nhường nào.