Biến động tỷ giá có đáng lo?

Các chuyên gia cho rằng biến động tỷ giá chỉ mang tính chất ngắn hạn và đồng Việt Nam vẫn có khả năng tăng giá trở lại trong trung và dài hạn. Những nhận định này cũng dựa trên cơ sở đồng đô la Mỹ trên thị trường quốc tế được dự báo sẽ suy yếu trở lại vào những tháng cuối năm, khi Fed đạt tới gần cuối chu kỳ thắt chặt tiền tệ.

Sức ép tỷ giá được kỳ vọng chỉ mang tính ngắn hạn

Tỷ giá là một trong những vấn đề được quan tâm thời gian gần đây khi áp lực mất giá của đồng Việt Nam gia tăng trong tháng 8-2023. Theo đó, tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ trên thị trường liên ngân hàng tại ngày 24-8 đã vượt ngưỡng 24.000 đồng một đô la, cao hơn 1,35% so với cuối tháng 7-2023 và cao hơn 1,59% so với đầu năm.

Cũng trong tháng 8, NHNN đã liên tục điều chỉnh tỷ giá trung tâm với mức điều chỉnh tăng 0,82% so với tháng liền trước, là mức điều cao nhất tính từ đầu năm.

Tỷ giá VND/USD liên tục gia tăng thời gian qua sau động thái hạ lãi suất điều hành của NHNN. Ảnh minh họa: TL

Tỷ giá VND/USD liên tục gia tăng thời gian qua sau động thái hạ lãi suất điều hành của NHNN. Ảnh minh họa: TL

Thực tế, áp lực tỷ giá đã xuất hiện giai đoạn cuối tháng 6 – đầu tháng 7, khi lãi suất giảm mạnh để kích cầu tín dụng, song giới phân tích cho rằng, biến động tăng đột biến của tỷ giá chỉ mang tính chất ngắn hạn.

Ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc toàn quốc Khối Ngoại hối, thị trường vốn và dịch vụ chứng khoán thuộc Ngân hàng HSBC Việt Nam, cho biết tỷ giá VND/USD trên thị trường liên ngân hàng bật tăng mạnh từ khoảng 23.700 – 23.750 đồng một đô la lên khoảng 23.950 – 24.000 đồng một đô la, tương đương mức mất giá 1,2% của đồng Việt Nam. Ngoài ra, biên độ giao dịch trong phiên của tỷ giá cũng chứng kiến những bước tăng mạnh cả về bước giá, cũng như khoảng cách giữa giá mua và giá bán.

Với bối cảnh trên, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá trung tâm, phần nào phản ánh những áp lực của tỷ giá thời gian qua.

Những áp lực này, theo ông Khoa, đến từ những biến động trên thị trường quốc tế. Cụ thể, những lo ngại về lạm phát của Mỹ chưa hạ nhiệt nhanh như kỳ vọng, trong khi các số liệu kinh tế khác của Mỹ vẫn không cho thấy dấu hiệu suy thoái, mặt bằng lãi suất của Mỹ tăng trở lại trong tuần qua với chỉ số US Dollar Index (DXY) – sử dụng để đo lường biến động đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) – tăng 0,65%, đạt mốc 104,26.

Ngoài ra, một đối tác thương mại lớn khác của Việt Nam là Trung Quốc có xu hướng phục hồi kinh tế chậm sau mở cửa, khiến nhân dân tệ (CNY) mất giá mạnh. Đà mất giá của CNY cùng sự mạnh lên của đô la Mỹ khiến những ngoại tệ khác, gồm đồng Việt Nam, mất giá đáng kể.

Với riêng Việt Nam, ông Khoa cho rằng sự đối lập về chính sách tiền tệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng là một trong những nguyên nhân tạo áp lực cho tỷ giá trong nước. Cụ thể, tăng trưởng trong nước chậm lại, lạm phát hạ nhiệt nhanh chóng và sự ổn định của thị trường ngoại hối những tháng đầu năm cho thấy, ưu tiên chính sách của Việt Nam tập trung vào hỗ trợ tăng trưởng. Điều này hoàn toàn trái ngược với Mỹ, nơi số liệu kinh tế vẫn tích cực và lạm phát cơ bản chưa hạ nhiệt về mức mục tiêu, khiến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục duy trì xu hướng thắt chặt.

Cũng có góc nhìn tương tự, bộ phận phân tích thuộc Công ty chứng khoán SSI (SSI Research) cho biết việc duy trì chính sách tiền tệ phân kỳ với các ngân hàng Trung ương lớn trên thế giới là yếu tố tạo ra áp lực lớn hơn đối với tỷ giá trong quí 3-2023 và khiến tỷ giá biến động mạnh trong giai đoạn này.

Bên cạnh những yếu tố trên, TS Nguyễn Hữu Huân, giảng viên trường Đại học Kinh tế TPHCM, cho rằng xu hướng tỷ giá tăng cao thời gian qua chịu tác động của một số yếu tố mùa vụ. Cụ thể, tháng 8 và 9 thường là giai đoạn nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu, hàng hóa bán dẫn tăng cao, đến nhu cầu về ngoại tệ trong nước tăng cao, qua đó tạo sức ép tỷ giá gia tăng trong ngắn hạn.

Ngoài ra, giá dự kiến có xu hướng tăng cao vào giai đoạn tháng 11 và 12 – trước Giáng sinh và giai đoạn sau Tết Dương lịch – trước Tết Âm lịch.

“Nhu cầu về ngoại tệ thường tăng cao trong ba giai đoạn này, kéo theo nhu cầu tỷ giá gia tăng, nhưng sau đó sẽ ổn định trở lại”, ông Huân nói và cho rằng tỷ giá hiện đang chịu tác động kép, gồm nhu cầu tăng đột biến do yếu tố mùa vụ và sự chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và Mỹ đang co hẹp (lãi suất của Mỹ khoảng 5,5%, lãi suất tại Việt Nam khoảng 6-7% một năm và tiếp tục xu hướng giảm – PV).

Về xu hướng tỷ giá trong thời gian tới, ông Ngô Đăng Khoa cho rằng những biến động tỷ giá chỉ mang tính chất ngắn hạn và đồng Việt Nam vẫn có khả năng tăng giá trở lại trong trung – dài hạn.

Cơ sở để chuyên gia của HSBC đưa ra nhận định này là dự báo đồng đô la Mỹ trên thị trường quốc tế sẽ yếu trở lại vào những tháng cuối năm trong bối cảnh Fed đã đạt tới gần cuối chu kỳ thắt chặt tiền tệ.

Ngoài ra, những yếu tố nội tại của Việt Nam có thấy dấu hiệu tích cực. Cụ thể, cán cân thương mại hàng hóa 7 tháng đầu năm vẫn xuất siêu 15,23 tỉ đô la dù chịu ảnh hưởng bởi sụt giảm đơn hàng, Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng ổn định, với vốn thực hiện trong 7 tháng đầu năm ước đạt 11,58 tỉ đô la, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước.

Bên cạnh đó, những nỗ lực của Chính phủ để hỗ trợ hồi phục kinh tế thông qua chính sách tiền tệ và tài khóa trên diện rộng cũng có thể giúp xây dựng lại niềm tin của các nhà đầu tư vào các lĩnh vực khác, cũng như tạo ra kết quả tích cực.

Còn các chuyên gia của Công ty chứng khoán Maybank (MBKE) cho biết khi có những biến động trên thị trường ngoại hối, NHNN sẽ sử dụng ba chiến thuật.

Thứ nhất, kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại. Thứ hai, thắt chặt hơn một chút tính thanh khoản của tiền đồng trên thị trường liên ngân hàng. Và cuối cùng, bán đô la Mỹ từ nguồn dự trữ ngoại hối để bảo vệ đồng Việt Nam.

Theo quan sát của nhóm phân tích, hiện NHNN chưa sử dụng biện pháp số hai và số ba, trong khi biện pháp thứ nhất thường được sử dụng đầu tiên khi thị trường ngoại hối bắt đầu có dấu hiệu bất thường.

Do đó, đơn vị này nghiêng về dự báo đồng Việt Nma chỉ mất giá trong khoảng 2-3% so với đô la Mỹ trong 12 tháng tới và sẽ không ảnh hưởng đến quan điểm chính sách hướng đến mục tiêu phục hồi, tăng trưởng kinh tế.

Ứng xử ra sao trước bài toán tỷ giá – lãi suất?

Thực tế, bối cảnh tỷ giá tăng cao sẽ đặt các nhà điều hành kinh tế trước hai sự lưanj chọn là ổn định tỷ giá hoặc ổn định lãi suất, vì ở mỗi thời điểm, sự lựa chọn khác nhau sẽ phù hợp với những mục tiêu chính sách khác nhau.

Cụ thể, nếu tỷ giá tăng quá cao thì cần tăng lãi suất bởi nếu đô la Mỹ mạnh lên do lãi suất ở Mỹ gia tăng, mà lãi suất ở Việt Nam thấp, thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ hướng tới các thị trường khác với mức lãi suất cao hơn, thay vì đầu tư vào Việt Nam các. Ngược lại, nếu không muốn tăng lãi suất mà giữ ở mức thấp để hỗ trợ tăng trưởng thì phải chấp nhận đồng tiền mất giá, cán cân tài khoản vốn đổi chiều.

Với bối cảnh hiện tại, TS Nguyễn Hữu Huân cho rằng nếu giảm thêm lãi suất thời gian tới, thì chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và Mỹ không còn nhiều.

“Khi chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và Mỹ thấp, dòng vốn có khả năng đảo chiều, nhà đầu tư sẽ tìm đến thị trường có lãi suất cao và đây cũng chính là con dao hai lưỡi khiến tỷ giá tăng cao”, ông Huân lưu ý.

Cũng theo chuyên gia này, trong những giai đoạn mùa vụ như hiện nay, không nên can thiệp quá nhiều vào tỷ giá vì nhu cầu cao nên tỷ giá sẽ tăng nóng, sau đó giảm trở lại.

“Chưa cần sử dụng đến dự trữ ngoại hối để can thiệp trong giai đoạn này, bởi sẽ không mang lại nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên, nhà điều hành cần theo dõi sát sao cán cân thanh toán, đặc biệt là cán cân tài khoản vốn để có động thái can thiệp thị trường và tỷ giá phù hợp”, ông Huân khuyến nghị.

Về định hướng điều hành, TS Huân cho rằng, từ giờ đến cuối năm NHNN cần cân nhắc rất kỹ khi điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh việc giảm lãi suất không hỗ trợ nhiều cho tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, chính sách tiền tệ cần thời gian phát huy tác dụng thông qua các kênh truyền dẫn, tránh việc nóng vội, chủ quan.

Theo chuyên gia này, một điểm nghẽn rất lớn trong chính sách tiền tệ là dù lãi suất thấp, nhưng dòng vốn cũng không chảy ra nền kinh tế do doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn.

Cụ thể, tín dụng nền kinh tế 7 tháng đầu năm 2023 đạt khoảng 12,47 triệu tỉ đồng, tăng 4,56% so với cuối năm 2022. Điều này cho thấy tín dụng không những không tăng trưởng trong tháng 7 đã đi lùi và giảm mất 0,02 triệu tỉ đồng, tức là các ngân hàng trong tháng 7 vừa qua thu tiền về nhiều hơn cho vay ra.

Do đó, cần hết sức cân nhắc trong việc giảm lãi suất điều hành và cũng không cần thiết phải tiếp tục giảm vì mức lãi suất điều hành hiện tại đã tương đối hỗ trợ và mình không nên quá nóng vội bởi cần phải có độ trễ để thực thi.

“Khi kê đơn thuốc thì liều lượng phải phù hợp bởi uống thuốc quá liều sẽ bị tác dụng phụ. Tác dụng phụ là sức ép lạm phát và tỷ giá có thể quay trở lại”, ông Huân nói.

Còn một thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng cần vận dụng mạnh hơn nữa các công cụ của chính sách tiền tệ có giao tiếp trực tiếp với thị trường 1 thông qua các tổ chức tín dụng. Chẳng hạn, dự trữ bắt buộc, điều hành trên thị trường mở, tái cấp vốn, can thiệp trên thị trường liên ngân hàng bởi đó là dư địa để giảm lãi suất thực xuống mức thấp hơn trong bối cảnh lãi suất điều hành được NHNN điều chỉnh giảm nhiều lần.

Vân Phong

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/bien-dong-ty-gia-co-dang-lo/