Chưa có hồi kết vụ sai phạm tại Cty chứng khoán SMES

Ngày 4/7, TAND TP Hà Nội vừa mở phiên sơ thẩm xét xử các bị cáo trong vụ lừa đảo 300 tỷ đồng xảy ra tại Cty chứng khoán SMES (SMES) và Cty CP Tài chính công đoàn dầu khí Việt Nam (PVFI).

Các bị cáo tại tòa

Các bị cáo tại tòa

Nhiều lần trả hồ sơ

Tuy nhiên, do có bị cáo có đơn xin hoãn phiên tòa nên phiên tòa không diễn ra theo kế hoạch.

Các bị cáo trong vụ án: Phạm Minh Tuấn, SN 1974, cựu Tổng GĐ SMES; Phan Huy Chí, SN 1975, cựu Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng GĐ SMES; Nguyễn Huy Sơn, SN 1981, nhân viên SMES; Nguyễn Phương Lan, SN 1980, nhân viên SMES; Nguyễn Thanh Nam, SN 1975, cựu GĐ SMES chi nhánh TP HCM; Cao Tuấn Nghĩa, SN 1974, cựu GĐ Cty CP Tư vấn Anh) tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Chu Xuân Lai, SN 1967, cựu Tổng GĐ PVFI; Lê Xuân Tân, SN 1979, cựu Phó Tổng GĐ PVFI; Vũ Xuân Công, SN 1980, cựu Phó Trưởng Ban Dịch vụ tài chính PVFI; Vũ Thị Hồng Lan, SN 1978, cựu Trưởng Ban Dịch vụ tài chính PVF, tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.

Vụ án này từng được TAND TP Hà Nội đưa ra xét xử từ năm 2019 song nhiều lần bị trả hồ sơ điều tra bổ sung. Tại phiên tòa hồi tháng 5/2022, TAND TP Hà Nội cũng trả hồ sơ yêu cầu làm rõ số cổ phiếu của PVFI đứng tên SMES mà bị cáo Phan Huy Chí, cựu Chủ tịch HĐQT của SMES, đang nắm giữ và mục đích mua số cổ phiếu này liên quan thế nào đến số tiền hơn 79 tỷ đồng mà SMES nhận từ Cty PVFI, trong đó, tòa yêu cầu làm rõ 2 nội dung:

Thứ nhất, có hay không biên bản xác nhận công nợ, kế hoạch trả nợ giữa PVI với SMES với hai hợp đồng đầu tư chứng khoán ký ngày 21/4/2010, nếu có thì đã thực hiện thế nào? Thứ hai, số cổ phiếu PVFI đứng tên SMES mà bị cáo đang nắm giữ và mục đích mua số cổ phiếu này liên quan thế nào đến số tiền hơn 79 tỷ đồng mà SMES nhận từ PVFI theo các hợp đồng?

Theo tòa, điều này được làm rõ sẽ giúp xác định các bị cáo có chiếm đoạt tiền của PVI và PVFI hay không và nếu có là bao nhiêu, thời điểm và hình thức nào? Từ đây, cơ quan chức năng sẽ xác định trách nhiệm hình sự, dân sự giữa bị cáo và các chủ thể liên quan.

Căn cứ vào kết quả điều tra bổ sung, VKSND TC nhận thấy, nội dung yêu cầu điều tra bổ sung thứ nhất, tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện ngày 17/4/2011 hết hạn hợp đồng, giữa Hoàng Ngọc Anh, Cty Tư vấn Anh, Cty SMES và PVI có văn bản trao đổi về việc gia hạn thời hạn thanh toán cũng như lãi phạt chậm trả, kế hoạch thực hiện hợp đồng.

Từ ngày 21/4-18/5/2011, SMES đã trả cho PVI tổng số hơn 65,6 tỷ đồng để thanh toán cho Hợp đồng số 15, 16. Đến ngày 18/8/2011, PVI có văn bản số 71 gửi SMES và Phan Huy Chí với nội dung yêu cầu phía SMES thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng. Do vậy, nội dung yêu cầu này của TAND TP Hà Nội trước đây đã được CQĐT tiến hành điều tra làm rõ thể hiện tài liệu trong hồ sơ vụ án.

Đối với nội dung yêu cầu điều tra bổ sung thứ hai, VKSND TC cho rằng, kết quả điều tra bổ sung đã thể hiện số cổ phần này được SME cầm cố cho PVFI từ thời điểm tháng 8 và tháng 9/2010, không liên quan đến số tiền hơn 79,7 tỷ đồng do PVFI giải ngân theo 4 Hợp đồng từ số 122-125. Do đó, VKSND TC giữ nguyên quan điểm truy tố theo bản cáo trạng ban hành ngày 15/8/2019 và chuyển hồ sơ vụ án đến TAND TP Hà Nội để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Chiếm đoạt là gần 300 tỷ đồng

Theo cáo trạng, Cty SMES có trụ sở tại Tô Hiến Thành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, người đại diện pháp luật là bị cáo Phan Huy Chí. Quá trình hoạt động, do cần tiền sử dụng cá nhân và thanh toán các khoản nợ cũ, Phan Huy Chí lợi dụng sơ hở của đối tác, dùng thủ đoạn gian dối để tạo dựng khách hàng, đưa các mã chứng khoán khống vào Hợp đồng Hợp tác đầu tư chứng khoán Niêm yết, Hợp đồng Ủy thác cầm cố, Xác nhận phong tỏa mã chứng khoán để lừa đảo, chiếm đoạt tiền của Cty CP Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam (PVI) hơn 107 tỷ đồng; chiếm đoạt của Cty CP Tài chính công đoàn dầu khí (PVFI) hơn 111 tỷ đồng và chiếm đoạt của Ngân hàng HabuBank 80 tỷ đồng. Tổng số tiền các bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt là gần 300 tỷ đồng.

Cụ thể, tại PVI, Phạm Minh Tuấn và P.H.C chọn khách hàng Hoàng Ngọc Anh và Cao Tuấn Nghĩa, GĐ Cty CP Tư vấn Anh, nhập khống số lượng mã chứng khoán nhằm hoàn thiện hồ sơ để ký 2 hợp đồng hợp tác đầu tư với PVI. SME, PVI ký hai hợp đồng hợp tác với Hoàng Ngọc Anh giá trị hơn 168 tỷ đồng, với Cao Tuấn Nghĩa hơn 198 tỷ đồng... Trong đó, Ngọc Anh và Nghĩa góp bằng số dư các mã cổ phiếu phổ thông, không hạn chế chuyển nhượng.

Thực tế, hai khách hàng này không sở hữu số chứng khoán trên. Quá trình điều tra, Hoàng Ngọc Anh thừa nhận số CMND ghi trong các hợp đồng là của mình nhưng cho biết bị mất CMND và đã làm lại CMND khác. Bản thân Ngọc Anh là sinh viên, không có tiền đầu tư chứng khoán, không biết và không có quan hệ với các bên trong hợp đồng. Còn Cao Tuấn Nghĩa thừa nhận sai phạm trong việc ký hợp đồng nhưng cho biết bản thân không được hưởng lợi.

Tương tự, tại PVFI, các bị cáo tạo dựng hồ sơ hợp tác chứng khoán và nhập chứng khoán khống để làm hợp đồng hợp tác đầu tư giữa SME, PVFI với 6 cá nhân mở tài khoản tại SME. Các bị cáo Nguyễn Huy Sơn, Nguyễn Phương Lan và Cao Tuấn Nghĩa, biết rõ khách hàng không sở hữu số dư chứng khoán nhưng vẫn ký hợp đồng, lập hồ sơ, tạo điều kiện cho các bị cáo Phan Huy Chí, Phạm Minh Tuấn và Nguyễn Thanh Nam chiếm đoạt tiền.

Do đó, những bị cáo này bị đánh giá là đồng phạm tham gia giúp sức. VKSND xác định, các bị cáo Chu Xuân Lai, Lê Xuân Tân, Vũ Xuân Công và Vũ Thị Hồng Lan là những người có nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp nhưng đã không làm đúng, đầy đủ quy trình hợp tác đầu tư chứng khoán niêm yết của PVFI và quy định tại hợp đồng cung cấp dịch vụ hợp tác đầu tư chứng khoán niêm yết đã được ký kết giữa PVFI với SMES.

Ngoài ra, các bị cáo cũng không thực hiện đúng với nội dung hợp đồng nên để cho Phan Huy Chí cùng đồng phạm lợi dụng, chiếm đoạt tài sản gây thiệt hại cho PVFI số tiền hơn 109 tỷ đồng.

Nhật Nam

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/chua-co-hoi-ket-vu-sai-pham-tai-cty-chung-khoan-smes-342890.html