Đồng Văn mùa xuân này

Xứ sở của đá của mây của ngô của hoa và của những làn điệu dân ca sâu thăm thẳm tình người.

Tôi có anh bạn trẻ là họa sĩ - nhà thơ cứ cậy mình vừa mới đi Đồng Văn - Mèo Vạc về giữa thời “bốn chấm không” với vẻ mặt khoái cảm mới mẻ và độc lạ, hễ tới đâu là y như rằng, thế nào anh cũng đưa cả một seri ảnh và clip mới chụp với đá, với các cô gái H’Mông, với các chiến sĩ biên phòng, và cả với sương mù ra khoe.

Nhà họa sĩ trẻ của tôi vì lần đầu lên với vùng cao, nên cái háo hức hôm ra đi của anh thật đáng yêu, mặc dù nghe thì nhiều, nhưng đến là cả một sự kỳ thú không thể hình dung mà đủ. Xem phim xem truyện, xem ảnh ba bề bốn bên nhưng chỉ có đến tận nơi, mới thỏa.

Trước khi lên đường ai “xui” mang theo thứ gì, chuẩn bị thứ gì là anh ta chuẩn bị liền, từ ba - lô, quần áo ấm, cây gậy leo núi, võng, bạt, mì tôm đến dao găm, lương khô, mắm đặc. Và vui vẻ thay, mọi thứ chuẩn bị kỳ khu của anh, chỉ mới lên tới Hà Giang là đã trở thành lạc hậu rồi!

Quả tình Đồng Văn - Mèo Vạc có xa xôi thật, nhưng để đến được với xứ sở của núi đá cao ngút tầng mây cùng sương mù huyền ảo thời nay, thì cũng không phải quá lo xa với cả những mắm muối, tương, cà, dao găm, lương khô như thời bao cấp. Ấy thế nhưng nếu ai chưa một lần tới đó, mà mới chỉ nghe thôi, thì cái sự nghe kia thật chẳng thấm tháp bõ bèn gì.

Đồng Văn. Ảnh: Hoàng Anh

Đồng Văn. Ảnh: Hoàng Anh

Bạn cứ việc hình dung bạn đang ngồi trên chiếc xe máy phân khối lớn, đời mới, dưới sự điều khiển của tay lái trẻ lão luyện ngoài “băm” như bạn tôi, nhưng nếu chỉ cần tay lái kia sơ sảy một ly là ta đi một dặm vực sâu ngay. Làm gì có chuyện đó! Vâng, chẳng thể nào có chuyện đó xảy ra. Nhưng mà nếu có thì cũng giống như ta đang ngồi trên máy bay rơi “tự do” thôi mà!

Những tay lái có thâm niên ở xứ này không phải hiếm. Và họ biết tâm trạng của những người mới đi lần đầu, nên cứ tới những đoạn nguy hiểm, thế nào ta cũng được nghe một câu chuyện tếu, cũng “nguy hiểm”, chẳng kém gì núi cao, vực sâu. Xe ta vẫn cứ lên. Vâng, tay lái vẫn ngon, sức trẻ hào sảng, cứ ngỡ ta đã leo lên, vượt qua bao nhiêu là đỉnh đèo chon von rồi, thì đến Cổng Trời cũng sẽ hết dốc. Nhưng vẫn không phải thế.

Chỉ vài phút sau, xe ta ngoành sang một chóp núi mới, như từ trong huyền thoại, chợt bắt gặp một bình nguyên đá, cũng chỉ ngay sau đó, vài cái “ngoành tay”, tức thì ta lại chơi vơi giữa hai vách núi cao dựng đứng.

Phía trước mặt ta là một mom núi sương thả vật vờ. Rồi bỗng dưng sương cuồn cuộn dâng lên, mở ra bảy sắc cầu vồng. Gió lôi sương đi, ta chợt sững sờ nhận ra một vệt dài theo hai triền núi cơ man nào là ruộng bậc thang, cơ man nào hoa. Hoa mơ hoa mận hoa lê trắng đến nao lòng. Hoa đào nồng nàn quanh các chùm nhà xinh xẻo của bà con H’Mông, tựa như có sự bố trí pha màu trên nền xanh lam kỳ ảo.

Chỉ có chút đất gùi từ dưới thung lên, như những đàn kiến tha mồi, hết đời này qua đời khác, vậy mà cây ngô của người H’Mông cứ lặng lẽ xanh lên cùng bạt ngàn hoa, bạt ngàn đá núi.

Thế mới biết thiên nhiên không dễ dàng bộc lộ hết vẻ đẹp kỳ ảo của mình, nếu như con người chỉ biết ngồi chờ. Phải lên tới nơi đây, tôi mới thấm cái câu “đứng núi này trông núi nọ”. Thế rồi có lần tôi tò mò hỏi một ông già người H’Mông:”Vì sao người H’Mông ở tít trên cao thế?”, ông già nhìn tôi lạ lẫm rồi hỏi: “Xa à? Sao mày ở dưới xuôi xa thế?”. Ôi, cái câu hỏi đồng thời cũng là câu trả lời mới chí lý làm sao!

Tờ mờ sáng, trong tiếng suối chảy róc rách, và cả trong mơ mơ màng màng, ta chợt nghe đâu đó xa lắm như có tiếng gõ lóc cóc, lóc cóc, rồi ta tỉnh táo hoàn toàn, nhận ra mình đang hiện diện nơi gió thẳm sương ngàn. Thung lũng Đồng Văn và thứ âm thanh cộng hưởng nơi vách núi dội về, tiếng ngựa hí, tiếng người hú gọi cùng tiếng gà gáy lạc canh eo óc.

Tôi khoác áo ấm ra đứng ngoài hiên cửa. Trời rét đậm. Những đốm lửa đuốc nối nhau từ trên phía dốc triền thung lúc ẩn, lúc hiện, cứ ngỡ như chúng đang bay phía trước mặt mình, chỉ cần chạy lên, chỉ cần quơ tay là tới, ai dè cũng phải vài “con dao quăng”, theo cách nói của bà con dân tộc. “Vài con dao quăng”, chao, cái lối ví von mới cụ thể mà vẫn trừu tượng làm sao!

Dốc Thẩm Mã, Hà Giang. Ảnh: Hoàng Anh

Dốc Thẩm Mã, Hà Giang. Ảnh: Hoàng Anh

Những đống lửa dưới lòng thung bắt đầu hừng lên báo hiệu nơi đây mới là tụ điểm. Tôi thả bộ theo con đường mòn xuống suối, xuống chợ và nhận ra những đống lửa kia chính là những đống lửa được nhen lên để nấu những chảo thắng cố.

Quanh các bếp lửa, người ta ngủ la liệt trên đất, trên những vật dụng chờ sáng, chờ khi phiên chợ được khai mở. Một vài ông bà già ngồi rì rầm trò chuyện và uống rượu suông. Lại có người ngồi tựa cây cột được cắm giữa hai tảng đá, hát một điệu dân ca rất dài, không thành lời, nhưng các âm tiết cứ díu vào nhau.

Lửa ấm tỏa lan khắp các tốp người. Lửa ấm tỏa sang cả bãi giữ ngựa. Những chú ngựa đứng sóng hàng ngày một đông lên, không khí càng về sáng càng trở nên nhộp nhịp. Trong bãi giữ ngựa, theo cách bố thí gần giống như bãi xe máy ở dưới xuôi, những người sành sỏi đứng quanh chỉ trỏ, bình phẩm về ngựa và cả về chủ của chúng xem ra có vẻ cũng xôm trò lắm.

Phiên chợ vùng cao. Ảnh: Hoàng Anh

Phiên chợ vùng cao. Ảnh: Hoàng Anh

Chợ phiên Đồng Văn với những cuộc mua bán diễn ra rất sớm, từ lúc trời còn mờ đất, cho tới khi nhìn rõ mặt nhau, thì chợ đã đầy ắp người, đầy ắp hàng hóa từ các bản làng xa xôi chuyển tới, với đầy ắp sắc màu và đầy ắp hương vị.

Nhưng những chuyện mua bán diễn ra thật chóng vánh, cho tới khi ông mặt trời đứng ngang sườn núi thì mọi sinh hoạt đã chuyển sang sinh hoạt lễ hội văn hóa với từng tốp tự nó hình thành. Tốp này biểu diễn nhạc khèn, múa khèn. Tốp kia say sưa hát đối, hát lượn. Lại có tốp ngồi bên chảo thắng cố xì xụp ăn uống.

Những bát rượu nóng, sánh đầy, cùng những tiếng hát lời ca cũng ấm nóng, sánh đầy, không phân biệt trẻ già, trai gái. Hội chợ diễn ra suốt từ sáng tới trưa.

Mua bán tấp nập tại một phiên chợ vùng cao. Ảnh: Hoàng Anh

Mua bán tấp nập tại một phiên chợ vùng cao. Ảnh: Hoàng Anh

Rượu và rượu, chỗ nào cũng rượu và tiếng chào mời. Ấy vậy mà các cô gái vẫn giữ được mình, chỉ có các chàng trai, nhất là các bậc trung niên đã say rồi lại say thêm nữa, nhiều người say cho tới khi nào tỉnh mà biết mình vẫn còn ở chợ thì lại tiếp tục say.

Cái say của người miền núi chốn chợ phiên là cái say của đất, của đá, của trời, và của tình người, không hề vì say mà sinh lắm chuyện. Say để bộc lộ mình, để hòa mình vào với thiên nhiên, với những bản dân ca, những điệu dân vũ, sau những ngày nắng mưa mệt nhọc.

Đặc sản rượu ngô men lá. Ảnh: Hoàng Anh

Đặc sản rượu ngô men lá. Ảnh: Hoàng Anh

Chợ vui cho mãi tới khi mặt trời nghiêng hẳn sang phía sườn Tây và ta lại thấy, từ trên các triền núi cheo leo, trên những con đường mòn chi chít, uốn lượn, bóng những đoàn người ngựa thồ hàng kĩu kịt khuất dần.

Đôi khi ta bắt gặp cảnh tượng lạ lùng: trên lưng chú ngựa ngoài hàng hóa, còn có một người đàn ông nằm vắt ngang, cô vợ xinh đẹp thì cứ lặng lẽ đi bên, tay giương ô che nắng cho chồng, với một vẻ mặt đầy mãn nguyện. Lại có chàng bị tuột khỏi mình ngựa, cô vợ vì không đủ sức đỡ chàng lên, đành kiên nhẫn ngồi giương ô che nắng, che gió, chờ tốp sau tới giúp.

Chiều Xuân gió núi, tôi đứng trên đỉnh Mèo Vạc nhìn xuống dòng Nho Quế, dòng sông tựa như con rắn bạc uốn lượn dưới kia tạo nên sức sống trù phú và vẻ đẹp kỳ vĩ cho xứ sở này. Xứ sở của đá của mây của ngô của hoa và của những làn điệu dân ca sâu thăm thẳm tình người.

Chỉ có lên tới đây, được sống những ngày hồn nhiên, trong trẻo với bà con, tôi mới cảm nhận hết được vẻ đẹp muôn trùng của non sông đất Việt.

Tôi cầm lên tay viên đá tình cờ, viên đá ngàn triệu năm tuổi, và ngước nhìn lên. Trời xanh, xanh tự thuở nào. Miền cao cực Bắc mùa Xuân này níu chân tôi ở lại…

Bút ký của Trung Trung Đỉnh

Nguồn Nhà Quản Trị: http://theleader.vn/dong-van-mua-xuan-nay-1707736954868.htm