Hiệp định VN-EAEUFTA cần sớm được nghiên cứu khả thi để sửa đổi và nâng cấp
Hiệp định VN-EAEUFTA đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển thương mại hai chiều mạnh mẽ giữa Việt Nam và các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á – Âu, tuy nhiên một số điều khoản quy định trong Hiệp định không còn phù hợp với bối cảnh hiện nay.
Tại khóa họp lần thứ V, Ủy ban Hỗn hợp thực thi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu (Hiệp định VN-EAEUFTA) theo hình thức trực tuyến chiều 13/11, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên và Bộ trưởng Phụ trách Thương mại của Ủy ban Kinh tế Á - Âu Andrey Slepnev đã thống nhất cho rằng, Hiệp định VN-EAEUFTA đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển thương mại hai chiều mạnh mẽ giữa Việt Nam và các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á - Âu.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đánh giá một số điều khoản, quy định trong Hiệp định VN-EAEUFTA không còn phù hợp với bối cảnh hiện nay. Vì vậy hai Bên cần xem xét kỹ lưỡng, nghiên cứu các giải pháp mới để tăng cường hiệu quả của Hiệp định, thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á – Âu.
Theo đó, hai Bên cần xem xét một số biện pháp như nhanh chóng khởi động nghiên cứu khả thi về khả năng sửa đổi, nâng cấp Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu; Tiếp tục mở cửa thị trường, tháo gỡ các rào cản thương mại, nỗ lực tháo gỡ các khó khăn liên quan thanh toán, vận tải và di chuyển giữa người dân, đặc biệt là doanh nhân giữa hai nước. Riêng về vấn đề miễn thị thực, đề nghị các nước Liên minh Kinh tế Á - Âu tiếp tục xem xét đề nghị miễn thị thực cho công dân Việt Nam ở mức tương ứng như Việt Nam đang dành cho các nước Bạn.
Các cơ quan chức năng của hai Bên nỗ lực tìm kiếm những phương hướng, dự án hợp tác mới trong các lĩnh vực mới: chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chống biến đổi khí hậu, kinh tế tuần hoàn, khoa học công nghệ và đổi mới và sáng tạo…
Hai Bộ trưởng thống nhất chỉ đạo cấp kỹ thuật, tiếp tục tạo điều kiện để hàng hóa tiếp cận thị trường của nhau thuận lợi hơn, loại bỏ các rào cản về thương mại, nhất là các thủ tục hành chính để tăng cường mạnh mẽ hơn thương mại hai chiều.
Tăng cường thông tin cho nhau những thay đổi trong chính sách xuất nhập khẩu của mỗi nước, để giúp DN thực hiện chiến lược sản xuất kinh doanh của mình một cách hiệu quả hơn; tạo điều kiện để các DN hai Bên tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xúc tiến thương mại sang thị trường của nhau để tìm kiếm đối tác, phát huy tối đa khả năng, lợi thế, sự năng động, sáng tạo để có các kết quả cụ thể, thực chất hơn.
Hai Bên ghi nhận tích cực những tiến bộ đạt được trong việc triển khai các dự án đầu tư ưu tiên giữa các nước thành viên EAEU và Việt Nam, đồng thời thống nhất tăng cường hỗ trợ DN giải quyết mọi vấn đề mà các nước thành viên có thể gặp phải trong việc thực hiện các dự án đầu tư ưu tiên trên lãnh thổ của nhau. Đồng thời, sẵn sàng báo cáo Chính phủ hai Bên về những vấn đề phát sinh, khó khăn, vướng mắc vượt thẩm quyền để thúc đẩy hợp tác đối với các nội dung đã được hai Bên trao đổi và thống nhất.
Theo số liệu của Liên minh Kinh tế Á - Âu, trong giai đoạn từ năm 2017 - 2021, thương mại giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu đã tăng mạnh từ 5,9 tỷ USD vào năm 2017 lên 7,8 tỷ USD vào năm 2021.
Nhờ tác động tích cực từ Hiệp định VN-EAEUFTA, 9 tháng đầu năm 2023, thương mại giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu đạt khoảng 3,2 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Liên minh Kinh tế Á - Âu đạt khoảng 1,8 tỷ USD. Nhập khẩu của Việt Nam từ Liên minh Kinh tế Á - Âu đạt khoảng 1,4 tỷ USD. Với tỷ lệ tận dụng C/O form EAEU sau 7 tháng đạt khoảng 51% kim ngạch thương mại hai chiều, tăng cao so với mức 38% của năm 2022.
Trong thương mại với Liên minh Kinh tế Á - Âu, Liên bang Nga vẫn là đối tác lớn nhất, chiếm 66% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Liên minh Kinh tế Á - Âu và 97% trong nhập khẩu của Việt Nam từ Liên minh Kinh tế Á - Âu.
Về hợp tác đầu tư, hai Bên coi trọng việc tăng cường hợp tác đầu tư giữa các nước thành viên EAEU và Việt Nam. Mục tiêu chính của Hiệp định là nhằm tạo điều kiện, thúc đẩy và tăng cường các cơ hội đầu tư giữa các Bên thông qua việc phát triển hơn nữa môi trường đầu tư thuận lợi.