Ngành công nghệ sinh học Việt Nam vắng bóng khối tư nhân

Công nghệ sinh học tại Việt Nam phát triển còn chậm so với thế giới. Một phần nguyên nhân đến từ việc thiếu sự tham gia của khối tư nhân.

Công nghệ sinh học đóng góp quan trọng vào ngành nông nghiệp

Hơn 10 năm du nhập vào Việt Nam, giống ngô chuyển gen đã tạo ra nhiều tác động tích cực cho các hộ nông dân.

Trong một đoạn phim do Báo Nông nghiệp Việt Nam thực hiện, nông dân Ngô Văn Tùng (xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La) cho biết từ năm 2015, ông đã tiến hành trồng giống ngô kháng sâu, có khả năng chịu lạnh vào mùa đông.

Giống ngô đổi mới cho ra năng suất cao và hàm lượng dinh dưỡng đảm bảo. Nhờ đó, ông chủ động được thức ăn cho đàn bò 100 con trong suốt cả năm; khi mỗi con bò sữa cần khoảng 50 kg thức ăn mỗi ngày.

Học theo ông Tùng, rất nhiều hộ nông dân khác cũng trồng cây ngô chuyển gen để lấy sinh khối làm thức ăn chăn nuôi.

Giống ngô chuyển gen là một ví dụ minh họa rõ ràng về tác động của công nghệ sinh học tới ngành nông nghiệp.

Theo thống kê, thế giới có khoảng 200 triệu ha cây trồng chuyển gen. Tỷ lệ chiếm nhiều nhất là đậu tương, lên tới gần 80% diện tích. Ngoài ra, diện tích trồng ngô cũng tới hơn 25%.

Tại Việt Nam, TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN-PTNT), Chủ tịch HĐQT Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế - IRRI cho biết, những kết quả của công nghệ sinh học đã giúp ngành nông nghiệp có nhiều thành tựu đột phá trong 30 năm qua. Trong đó, những công nghệ nổi bật có nuôi cấy mô giúp lĩnh vực trồng trọt, đặc biệt là các sản phẩm như ngô, đỗ tương, bông… có năng suất vượt trội, góp phần đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu, giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật, cải thiện chất lượng đất, môi trường.

TS Cao Đức Phát phát biểu tại Diễn đàn "Thành tựu và định hướng công nghệ sinh học", tổ chức ngày 5/10 tại Hà Nội.

TS Cao Đức Phát phát biểu tại Diễn đàn "Thành tựu và định hướng công nghệ sinh học", tổ chức ngày 5/10 tại Hà Nội.

Hiện công nghệ sinh học đã phát triển sang công nghệ vi sinh, công nghệ nano, công nghệ tế bào, công nghệ chỉnh sửa gen… giúp ngành nông nghiệp đạt được những đỉnh cao mới. Giới hạn áp dụng công nghệ sinh học cũng không còn bó buộc trong trồng trọt, mà mở ra sang chăn nuôi, thủy sản.

Tiêu biểu như trong lĩnh vực thú y, bằng cách làm chủ khoa học công nghệ, Việt Nam đã tự sản xuất được rất nhiều vacxin phòng, ngừa bệnh trên đàn vật nuôi, ví dụ vacxin phòng chống cúm trên gia cầm, vacxin Dịch tả lợn châu Phi, các sản phẩm chống kháng thuốc…

“Điều đáng tiếc là áp dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam còn chậm, khoảng cách với thế giới có xu hướng ngày càng tăng và chưa đạt mục tiêu của Đảng, Nhà nước đặt ra”, TS. Cao Đức Phát bày tỏ.

Cần cơ chế thu hút doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào công nghệ sinh học

PGS.TS. Nguyễn Hữu Ninh, Phó vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường (Bộ NN-PTNT) cho biết trong giai đoạn 2021-2030, Việt Nam mới thực hiện 32 nhiệm vụ khoa học công nghệ trong lĩnh vực công nghệ sinh học, giảm mạnh so với giai đoạn 2005-2020 (279 nhiệm vụ khoa học).

“Sự tham gia của doanh nghiệp gần như không có, và họ không dám tham gia”, ông Ninh nói.

Một phần nguyên nhân đến từ rào cản về các cơ chế, chính sách. Cụ thể, kết quả nghiên cứu thuộc phạm vi đầu tư của ngân sách Nhà nước sẽ được xem là tài sản Nhà nước. Vì vậy, doanh nghiệp thời gian qua kém mặn mà trong việc phối hợp, đầu tư nghiên cứu công nghệ sinh học.

Ông Ninh đề xuất cần có cơ chế tạo điều kiện cho khối tư nhân tham gia vào hoạt động phát triển sản phẩm công nghệ sinh học; đầu tư cho các phòng sinh học trong điểm để tập trung nghiên cứu với trang thiết bị hiện đại. “Doanh nghiệp không thể tham gia, công nghệ sinh học dường như vẫn dậm chân tại chỗ”, ông nói.

Công nghệ sinh học tạo ra giống ngô chuyển gen có khả năng kháng lại sâu bệnh.

Công nghệ sinh học tạo ra giống ngô chuyển gen có khả năng kháng lại sâu bệnh.

Ở vai trò người đứng đầu Cục Thú ý, Cục trưởng Nguyễn Văn Long cho rằng, hệ thống thú y cần có công nghệ cao, đủ sức chẩn đoán sớm, phòng ngừa từ xa với dịch bệnh, nhất là các bệnh mới nổi. Bởi đặc thù của ngành thú y là liên tục tiếp xúc với các mầm bệnh mới, các sản phẩm công nghệ sinh học mới từ quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam nằm trong nhóm thị trường lớn về tiêu thụ động vật.

Cục trưởng Nguyễn Văn Long đề xuất một số vấn đề, trong đó nhấn mạnh tới cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển công nghệ sinh học.

“Trình một dự án công nghệ theo cơ chế Nhà nước mất nhiều thời gian, có thể khiến nghiên cứu cơ bản của Việt Nam bị teo tóp”, lãnh đạo Cục Thú y bày tỏ và đề xuất, có một mô hình cởi mở giữa cơ quan quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp để sớm đưa các nghiên cứu ra đồng ruộng, thay vì “cất vào ngăn kéo”.

Về phía tổ chức quốc tế, bà Sonny Tababa, Giám đốc Công nghệ sinh học CropLife châu Á đánh giá, cây trồng áp dụng công nghệ sinh học giúp Việt Nam thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu, giúp người dân nâng cao sinh kế, đảm bảo thu nhập, nhất là tại các vùng chưa đảm bảo về nước tưới, vùng sâu, vùng xa.

Theo đại diện của CropLife, cơ quan quản lý nên là đầu mối tiên phong, sắm vai trò “mở đường” cho công nghệ sinh học, giúp người nông dân có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với công nghệ mới. Bên cạnh việc tự nghiên cứu về biến đổi gen, bà Sonny đề nghị Việt Nam tham khảo công nghệ, chính sách của các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Philippines…

“Khi nhìn vào khung pháp lý của các quốc gia lân cận, CropLife thấy có sự tương đồng với Việt Nam. Tôi tin, các bạn sẽ thu được những kinh nghiệm quý báu khi phát triển các công nghệ sinh học trong tương lai”, bà nhấn mạnh.

Nhung Bùi

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/nganh-cong-nghe-sinh-hoc-viet-nam-vang-bong-khoi-tu-nhan-d226686.html