Di tích Tháp đôi Liễu Cốc (phường Hương Xuân, TX. Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) là một công trình kiến trúc đặc trưng của người Chăm.
Di tích gồm hai ngôi tháp được xây dựng gần nhau (cách nhau khoảng 2,8m) trên hai trục song song theo hướng Đông - Tây, lối vào tháp ở phía Đông.
Tên gọi "Tháp đôi Liễu Cốc" được lấy từ tên địa danh làng Liễu Cốc và quy mô hai tháp để đặt tên di tích.
Năm 1994, Tháp đôi Liễu Cốc được Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ VH-TT&DL) ký quyết định xếp hạng di tích kiến trúc - nghệ thuật cấp quốc gia.
Mặc dù với hiện trạng đã bị xuống cấp, hư hại nghiêm trọng, nhưng so với các ngôi đền tháp Chămpa được biết đến từ Bắc Mỹ Sơn (Quảng Nam) trở ra, bên cạnh tháp Phú Diên, tháp đôi Chămpa 1.000 năm tuổi này là di tích được đánh giá có tình trạng bảo tồn tốt nhất.
Từ cuối tháng 4 đến tháng đầu tháng 6-2024, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia phối hợp với Sở VH&TT tỉnh Thừa Thiên Huế đã tiến hành thăm dò và khai quật khảo cổ tại di tích Tháp đôi Liễu Cốc - tháp đôi Chămpa 1.000 năm tuổi.
Diện tích thăm dò 20m2 (4 hố), diện tích khai quật 60m2 (3 hố). Việc nghiên cứu, khai quật khảo cổ lần này để xác định rõ quy mô, kết cấu, tính chất, niên đại của di tích.
Ông Nguyễn Ngọc Chất, cán bộ Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, người chủ trì thăm dò, khai quật khảo cổ cho biết quá trình khai quật đã xác định rõ mặt bằng, quy mô và kết cấu của kiến trúc đền tháp Bắc.
Quy mô, kết cấu tháp Bắc có 4 phần: Móng, đế tháp, thân tháp và mái tháp. Riêng mái tháp đã bị sụp đổ, không thể nhận diện; thân tháp cũng đã bị sụp đổ mất quá nửa nên việc nhận diện cũng hạn chế. Từ móng đến thân tháp đều được xây xếp thuần nhất bằng gạch, gạch xếp so le ngang dọc, trong đó phần phủ bì bên ngoài và mặt trong của móng, tường tháp đều sử dụng gạch lành, riêng phần lõi tường thì được sử dụng đa phần là gạch vỡ, có lẫn đất sét vàng, thuần.
Để xác định đầy đủ quy mô, cấu trúc mặt bằng tổng thể di tích Tháp đôi Liễu Cốc - tháp đôi Chămpa 1.000 năm tuổi, các chuyên gia cũng mở năm hố thám sát, trong đó có hai hố ở phía Đông thẳng trục trung tâm của tháp Bắc, một hố ở góc Đông Bắc, một hố ở góc Đông Nam và một hố ở phía Tây.
Ở các hố thăm dò đã xác định được vị trí của tháp Cổng (gopura), tháp Hỏa (kosagraha), hệ thống tường bao (antarmandala) phía Đông và đường đi nối từ tháp Nam sang tháp Bắc.
Ông Chất cho biết qua kết quả khai quật và quan sát bề mặt hiện trạng, bước đầu chỉ xác định được hai đền tháp chính trong di tích, không thấy dấu hiệu của tháp thứ 3. Nếu đúng chỉ có hai tháp thờ chính thì Tháp đôi Liễu Cốc là một di tích đặc biệt, duy nhất thuộc hệ thống di tích đền tháp Champa có hai tháp thờ chính.
Trong quá trình khai quật cũng thu được một khối lượng di vật khổng lồ gồm hơn 4.800 tiêu bản. Trong đó, tập trung chủ yếu là các loại vật liệu kiến trúc, trang trí kiến trúc, các mảnh bia và phù điêu đá, đồ gốm men, đồ sành, đồ đất nung và tiền kim loại.
Vật liệu kiến trúc có 3.936 tiêu bản gồm gạch và ngói, trong đó gạch chiếm đa số với 3.920 tiêu bản, ngói có 16 mảnh. Đồ gốm được tìm thấy với nhiều loại hình, chất liệu khác nhau. Tiền kim loại phát hiện được một đồng "Nguyên Phong thông bảo" viết theo lối Hành thảo (là lối viết láu, khá phóng túng, không chỉ nối nét trong một chữ, mà giữa các chữ cũng có thể nối với nhau) niên đại thế kỷ XIII.
Qua thực tiễn nghiên cứu và khai quật, các chuyên gia cũng đưa ra kiến nghị cần tiếp tục mở rộng diện tích nghiên cứu, khai quật khảo cổ để xác định rõ quy mô, kết cấu nguyên gốc, tính chất, đặc điểm, niên đại của di tích Tháp đôi Liễu Cốc. Từ đó làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng kế hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích, xây dựng hồ sơ thuyết minh di tích đúng với giá trị vốn có của nó.
NGUYỄN DO