Thị trường tài chính xanh ở Việt Nam: Những rào cản và giải pháp
Việt Nam cần khoản đầu tư tương đương khoảng 6,8% GDP mỗi năm, tương đương 368 tỷ USD cho đến năm 2040 để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh bao trùm gắn với chống biến đổi khí hậu.
“Phát triển thị trường tài chính xanh ở Việt Nam: Những rào cản, vấn đề cấp bách và giải pháp đột phá” là chủ đề của hội thảo do Viện Kinh tế Việt Nam tổ chức sáng 31/10. Tham gia hội thảo có đại diện các cơ quan, ban ngành ở trung ương và các hội ngành nghề.
Theo TS. Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, hiện nay, xu hướng chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu thế tất yếu, khách quan, không thể đảo ngược và là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới nhằm phát triển thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và đảm bảo an toàn công bằng về xã hội. Tại COP26, 147 quốc gia đã cam kết đạt "Phát thải ròng bằng 0" (PTRO) vào giữa thế kỷ XXI và tính đến hết năm 2022 đã có hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ ban hành chiến lược phát thải thấp theo hướng xanh, sạch với tầm nhìn dài hạn đến giữa thế kỷ XXI. Ở Việt Nam, tăng trưởng xanh là chủ trương lớn và nhất quản của Đảng và Nhà nước ta từ nhiều năm nay.
Bắt đầu từ năm 2012, Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011 - 2020. Tiếp theo đó vào tháng 10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050". Song hành với Chiến lược Tăng trưởng xanh, Chính phủ đã ban hành nhiều chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan đến chuyển đổi xanh như: Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (BĐKH) giai đoạn đến năm 2050; Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh; Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững; Quy hoạch điện VIII... Đồng thời, Việt Nam đã tham gia tích cực, có trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế trong chống biến đổi khí hậu như: Cam kết tại COP26 về phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050; Tuyên bố Chính trị thiết lập Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP); Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.
Để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh bao trùm gắn với năng lực chống chịu BĐKH và PTRO, Việt Nam cần huy động được nguồn lực tài chính rất lớn. Theo nghiên cứu của của Ngân hàng Thế giới (2022) cho thấy Việt Nam cần khoản đầu tư tương đương khoảng 6,8% GDP mỗi năm, tương đương 368 tỷ USD cho đến năm 2040. Điều này đòi hỏi phải có các cơ chế, chính sách để huy động nguồn vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy phát triển thị trường tài chính xanh, khuyến khích dòng vốn tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực của kính tế xanh.
Tại hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, cùng các đại biểu đã trao đổi, thảo luận nhằm nhận diện, mổ sẽ và có thêm góc nhìn đa chiều về những vấn đề trọng tâm, then chốt về tài chính xanh. Trong đó, tập trung vào các vấn đề như: Thị trường tài chính xanh ở Việt Nam hiện nay đang phát triển ở mức độ như thế nào so với thị trường tài chính xanh khu vực, thế giới, những mô hình, đối chuẩn, thông lệ tốt trên thể nào trên thế giới phù hợp mà Việt Nam có thể học hỏi.
Các đại biểu cũng bàn về những khó khăn, vướng mắc, rào cản, điểm nghẽn nào về cơ chế, chính sách, pháp luật đối với sự phát triển của thị trường tài chính xanh. Hiện nay, việc ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với tín dụng xanh, trái phiếu xanh chưa được quy định cụ thể, đồng bộ trong các văn bản pháp luật hiện hành ở Việt Nam. Đánh giá các vấn đề về quy định, tiêu chí môi trường, Danh mục phân loại dự án xanh; việc ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với tín dụng xanh, trái phiếu xanh còn chưa được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật hiện hành ở Việt Nam, do đó còn nhiều hạn chế trong việc xác định trình tự, thủ tục, vai trò, trách nhiệm của các bên có liên quan.
Từ đó, kiến nghị, đề xuất những giải pháp về cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội để thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính xanh; cơ chế đặc biệt cho nhóm doanh nghiệp dẫn đầu, doanh nghiệp dân tộc đầu tư vào lĩnh vực kinh tế xanh ở Việt Nam, đặc biệt giải pháp khơi thông được dòng chảy để thu hút nguồn lực tài chính từ khu vực kinh tế tư nhân trong nước cho các dự án xanh, chuyển đổi xanh có quy mô lớn, mang tầm quốc gia.
Ông Lê Xuân Sang cho rằng, phát triển xanh không chỉ là cam kết chính trị mạnh mẽ của cả quốc gia, mà là mệnh lệnh từ chính thị trường, yêu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm xanh hơn, an toàn hơn; yêu cầu của các nước phát triển; của bên cho vay, cung ứng sản phẩm tài chính… Do đó, chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu với các doanh nghiệp. “Chuyển đổi xanh là câu chuyện kinh doanh buộc phải chuyển đổi, dù muốn hay không khi xã hội hiện nay đòi hỏi phải có chữ “xanh” trong tiêu dùng”- Phó Viện trưởng Kinh tế Việt Nam TS Lê Xuân Sang nhấn mạnh.
PGS.TS Phạm Thị Hoàng Anh - Phó Giám đốc Học viện Ngân hàng cho biết, quy mô tín dụng xanh vẫn tương đối nhỏ so với tổng tín dụng hệ thống. Tín dụng xanh mới chiếm 4,5% tổng dư nợ của toàn nền kinh tế vào cuối năm 2023 (từ mức 3,33% vào năm 2018). Trong đó, dư nợ tín dụng xanh chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp xanh (chiếm khoảng 40%). Tỷ trọng tín dụng vào năng lượng tái tạo, năng lượng sạch có dư nợ tín dụng xanh cao thứ hai vào năm 2023, tương ứng 30% tổng dư nợ tín dụng xanh… cho thấy còn nhiều dư địa phát triển.
Theo các chuyên gia, phải có cơ chế và chính sách rõ ràng để phát triển các sản phẩm tài chính xanh. Chẳng hạn như việc phát hành trái phiếu xanh thí điểm ở TP Hà Nội vào quý IV năm 2016 để tài trợ các dự án xanh. Điều kiện phát hành của các trái phiếu xanh này sẽ tương tự như các trái phiếu thông thường, nhưng các dự án xanh sẽ được chứng nhận theo tiêu chuẩn của MoNRE.
Hiện các quy định pháp luật còn dài trải và chưa phù hợp. Thiếu đồng bộ về tiêu chí “xanh”. Chẳng hạn như chúng ta vẫn thiếu rất nhiều quy định về xây dựng thị trường tín chỉ carbon … Do đó cần hoàn thiện khung pháp lý về kinh tế xanh và tài chính xanh.
Trên cơ sở các bài tham luận khoa học và các ý kiến trao đổi, thảo luận và đóng góp của các quý đại biểu, Ban Tổ chức sẽ tổng hợp, chắt lọc các ý kiến đóng góp tại Hội thảo để có báo cáo kiến nghị chính sách gửi đến Chính phủ, Bộ ngành, một số cơ quan của Quốc hội và các cơ quan liên quan.