Sửa Luật Quản lý thuế bảo đảm chống thất thu ngân sách

Việc sửa đổi Luật Quản lý thuế không chỉ nhằm cải thiện hiệu quả thu ngân sách nhà nước mà còn tạo ra một môi trường thuận lợi cho người nộp thuế. Các đề xuất sửa đổi quy định về quản lý thuế của Bộ Tài chính là những bước đi quan trọng nhằm cải thiện hệ thống quản lý thuế tại Việt Nam.

Tăng hiệu quả, hiệu lực quản lý thuế

Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 (gọi tắt là Luật Quản lý thuế) có hiệu lực từ năm 2020, qua 4 năm thực hiện đã đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, minh bạch, tạo thuận lợi, giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp trong việc thực hiện chính sách thuế đối với nhà nước.

Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 cũng đã bộc lộ nhiều bất cập cần được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Thực tế cho thấy, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, số lượng doanh nghiệp và đối tượng nộp thuế tăng nhanh.

Để khắc phục những tồn tại này, tại dự thảo Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Dự trữ quốc gia, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Chứng khoán, Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi quy định về thẩm quyền quyết định hoàn thuế (sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 76) theo hướng bổ sung thẩm quyền quyết định hoàn thuế của Cục trưởng Cục Thuế doanh nghiệp lớn, Chi cục trưởng Chi cục Thuế và Chi cục trưởng Chi cục Thuế khu vực.

Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến nguyên tắc quản lý thuế (sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 5) theo hướng bổ sung quy định trách nhiệm của công chức quản lý thuế để thực hiện đầy đủ chức trách nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.

 Bổ sung, sửa đổi Luật Quản lý thuế lần này để hoàn thiện quy định về tháo gỡ vướng mắc về cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế.

Bổ sung, sửa đổi Luật Quản lý thuế lần này để hoàn thiện quy định về tháo gỡ vướng mắc về cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế.

Theo đánh giá của một số chuyên gia, các đề xuất sửa đổi quy định về quản lý thuế trong dự thảo Tờ trình của Bộ Tài chính là những bước đi quan trọng nhằm cải thiện hệ thống quản lý thuế tại Việt Nam. Sự phân cấp thẩm quyền và tăng cường trách nhiệm của công chức thuế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, đảm bảo rằng người nộp thuế nhận được sự phục vụ tốt nhất.

Hơn nữa, việc bổ sung, sửa đổi Luật Quản lý thuế lần này để hoàn thiện quy định về tháo gỡ vướng mắc về cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế, tăng cường trách nhiệm công vụ để đảm bảo công bằng, bình đẳng, minh bạch, thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật.

Vẫn còn những hạn chế trong sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế

Một trong những nội dung được nhiều người quan tâm hiện nay là bổ sung, sửa đổi với việc quản lý thu thuế trong hoạt động kinh doanh thương mại điện tử; quy định kê khai thuế thay người nộp thuế đối với các hoạt động kinh doanh giao dịch thương mại điện tử.

Cụ thể, tại Khoản 4, Điều 42 Luật Quản lý thuế hiện hành quy định về nguyên tắc kê khai tính thuế, đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thì “nhà cung cấp ở nước ngoài có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính”.

Theo TS. Nguyễn Văn Hiến - chuyên gia kinh tế cho rằng quy định như vậy chưa chặt chẽ, chưa rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau dẫn đến khó khăn cho công tác thu thuế các đối tượng này. Một số nhà cung cấp ở nước ngoài cho rằng, trường hợp họ không có cơ sở hoạt động thường trú tại Việt Nam thì không thuộc đối tượng phải đăng ký thuế, kê khai nộp thuế... Vì vậy, cần sửa đổi, bỏ nội dung “Nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam”, nghĩa là doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh thương mại điện tử cứ đã có kinh doanh thương mại điện tử tại Việt Nam thì phải có nghĩa vụ khai báo nộp thuế theo quy định, không phân biệt có cơ sở thường trú ở Việt Nam hay không.

Việc quy định kê khai thuế thay trong giao dịch thương mại điện tử đối với các sàn thương mại điển tử được xem là cần thiết, nhằm đảm bảo đầu mối quản lý thu tập trung, tránh thất thu thuế (tương tự như quy định tạm thu thuế thu nhập cá nhân tại nguồn phát sinh thu nhập). Tuy nhiên, quy định này đang gây những ý kiến trái chiều, vì vậy cũng cần sửa đổi, luật hóa quy định này theo hướng giảm các thủ tục hành chính để tránh gánh nặng pháp lý cũng như gánh nặng quản lý thu cho các doanh nghiệp kinh doanh sàn thương mại điện tử; đồng thời xem xét quy định phù hợp với thông lệ quốc tế.

Ngoài ra, đối với việc trực tiếp khai thuế của các hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có phát sinh hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, Luật Quản lý thuế 2019 chưa có quy định riêng mà áp dụng chung như đối với hộ, cá nhân kinh doanh theo phương thức truyền thống. Điều đó cũng gây thủ tục rườm rà, phức tạp cho người nộp thuế. Do đó, luật cũng cần bổ sung quy định thủ tục kê khai nộp thuế đặc thù đối với hộ và cá nhân có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, một cách đơn giản và thuận lợi nhất cho người nộp thuế để khuyến khích mở rộng nguồn thu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Bên cạnh đó, để thúc đẩy hiện đại hóa công tác quản lý thuế, Điều 6 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế) Dự thảo Luật sửa đổi 7 luật đã đề xuất làm rõ nguồn lực tài chính được bố trí từ ngân sách nhà nước là không quá 0,5% trên dự toán thu ngân sách nhà nước được Quốc hội giao hàng năm.

Góp ý về quy định đã nêu, ông Bùi Ngọc Tuấn - Phó tổng giám đốc Tư vấn Thuế, Công ty TNHH Tư vấn Thuế Deloitte Việt Nam cho rằng, cần làm rõ nguyên tắc, cơ sở tính toán và các tiêu chí để xác định mức ngân sách này có hợp lý và đủ để đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa công tác quản lý thuế hay không.

“Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của công nghệ và yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý thuế, đồng thời đảm bảo lợi ích công bằng cho người nộp thuế”, ông Tuấn chia sẻ.

Đồng thời với việc phê duyệt khi nguồn lực tài chính vượt ngưỡng, trong trường hợp nguồn lực tài chính cần thiết để hiện đại hóa công tác quản lý thuế vượt quá tỷ lệ 0,5%, cần có cơ chế rõ ràng xác định cơ quan cấp nào sẽ phê duyệt, cũng như quy trình để đảm bảo sự minh bạch, trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực tài chính. Điều này sẽ giúp tăng cường niềm tin của người nộp thuế vào việc sử dụng ngân sách nhà nước hiệu quả và đúng mục đích.

Về thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế, quy định hiện hành về Luật Quản lý thuế hướng dẫn đối với trường hợp việc chậm ban hành quyết định hoàn thuế do lỗi của cơ quan quản lý thuế thì ngoài số tiền thuế phải hoàn trả, cơ quan quản lý thuế còn phải trả tiền lãi với mức 0,03%/ngày tính trên số tiền phải hoàn trả và số ngày chậm hoàn trả. Nguồn tiền trả lãi được chi từ ngân sách trung ương theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.

Mặc dù quy định hiện hành đã đề cập mức tính lãi cụ thể trong trường hợp chậm ban hành quyết định hoàn thuế do lỗi của cơ quan quản lý thuế, tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục hoàn trả tiền lãi cho người nộp thuế và kinh phí chi trả nên hiện nay cơ quan thuế chưa có cơ sở để triển khai thực hiện.

Việc sửa đổi Luật Quản lý thuế không chỉ nhằm cải thiện hiệu quả thu ngân sách nhà nước mà còn tạo ra một môi trường thuận lợi cho người nộp thuế. Sự minh bạch, trách nhiệm và ứng dụng công nghệ sẽ góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thuế hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong thời gian tới.

Hoàng Tư

Nguồn TCDN: https://taichinhdoanhnghiep.net.vn/sua-luat-quan-ly-thue-bao-dam-chong-that-thu-ngan-sach-d53185.html