Nhiệm vụ cần triển khai sớm nhất là nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ văn hóa
Tiếp tục Kỳ họp thứ Tám, thảo luận tại hội trường, các đại biểu Quốc hội đều nhất trí chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 – 2035. Trong đó lưu ý, nhiệm vụ trọng tâm cần được triển khai sớm nhất là nâng cao năng lực, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm văn hóa nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý văn hóa trong cơ chế thị trường, khả năng thích ứng với những thay đổi của công nghệ thông tin và sự giao thoa, du nhập văn hóa…
Quyết liệt trong ban hành văn bản hướng dẫn
Đa số các ĐBQH tán thành chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 nhằm hướng tới phát triển con người Việt Nam có nhân cách, lối sống tốt đẹp; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh; phát triển hệ thống hạ tầng, cảnh quan, thiết chế văn hóa đồng bộ, hiệu quả; nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền và giáo dục văn hóa…
ĐBQH Nguyễn Thị Sửu (Thừa Thiên Huế) cho rằng, hồ sơ Chương trình đã bao gồm các thông tin chi tiết về mục tiêu, nội dung, dự án cụ thể, địa điểm triển khai, ngân sách, và các hoạt động dự kiến với 11 phụ lục thiết thực. Trong đó, đã đánh giá rõ nguồn lực cần thiết, bao gồm tài chính, nhân lực, cơ sở hạ tầng và thiết bị, để thực hiện Chương trình; đồng thời đưa ra lộ trình cụ thể cho từng giai đoạn triển khai, các mốc thời gian cần thiết để đánh giá tiến độ.
Tuy nhiên, ĐBQH Nguyễn Thị Quyên Thanh (Vĩnh Long) chỉ rõ, thực tế khi thực hiện các chương trình, dự án thì việc xây dựng chính sách, ban hành văn bản hướng dẫn thường mất nhiều thời gian nên khi triển khai đến địa phương, đến cơ sở thường chậm so với kế hoạch.
Do đó, đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh đề nghị, ưu tiên xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần được triển khai sớm nhất là nâng cao năng lực, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm văn hóa nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý văn hóa trong cơ chế thị trường, khả năng thích ứng với những thay đổi của công nghệ thông tin và sự giao thoa, du nhập văn hóa…
Đồng thời, theo đại biểu, cần quyết liệt trong việc ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện; cách thức, phương pháp, tiêu chí đánh giá kết quả các chỉ tiêu… để khi Chương trình được thông qua thì có đủ cơ sở để triển khai thực hiện sớm nhất.
Tránh việc tu bổ, tôn tạo trở thành “làm mới” di tích
Một trong những mục tiêu cụ thể hướng đến của Chương trình là “Phấn đấu đến năm 2030 có 95% di tích Quốc gia đặc biệt (tương tương khoảng 127 di tích) và 70% di tích Quốc gia (tương đương khoảng 2542 di tích) được tu bổ tôn tạo và đến năm 2035 có 100% di tích Quốc gia đặc biệt và 80% di tích Quốc gia” (Mục tiêu 3).
ĐBQH Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương) cho rằng, các di tích Quốc gia và di tích Quốc gia đặc biệt của Việt Nam phần lớn là các công trình kiến trúc với sự tác động của khí hậu, thời gian… nên đa số đã xuống cấp, cần tu bổ, tôn tạo. Tuy nhiên, không phải tất cả các di tích này đều cần tôn tạo, tu bổ, nhất là các di tích khảo cổ. Cùng với đó, nhiều năm qua, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các địa phương cũng đã rất chú trọng công tác trùng tu, tôn tạo di tích, nên nhiều di tích được tu bổ, tôn tạo và hàng năm vẫn dành nguồn lực để trùng tu, tôn tạo các di tích.
Theo đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, nếu đặt mục tiêu cụ thể như Mục tiêu 3 thì dễ dẫn đến việc tu bổ, tôn tạo triệt để, có thể dẫn đến việc di tích không cần tu bổ cũng tu bổ. "Lợi bất cập hại” ở chỗ có khi lại biến việc tu bổ, tôn tạo thành “làm mới” di tích như đã từng xảy ra. Việc phân bổ nguồn lực như vậy cũng rất dàn trải, không trọng tâm, trọng điểm.
Do đó, đại biểu đề nghị chỉ đưa ra con số 100% di tích Quốc gia đặc biệt và 80% di tích Quốc gia đã xuống cấp, cần tu bổ, tôn tạo sẽ được tu bổ, tôn tạo và các địa phương có trách nhiệm rà soát các di tích Quốc gia, di tích Quốc gia đặc biệt, báo cáo thực trạng và đề xuất phương án trùng tu, tôn tạo.
Cùng quan điểm này, đại biểu Nguyễn Thị Sửu đề nghị, phải rà soát, đánh giá kỹ lưỡng số liệu, hiện trạng di tích, di sản văn hóa và các nội dung đưa vào mục tiêu cụ thể để không chỉ đảm bảo tính bao quát mà còn thể hiện được tính dự báo về cả các di tích, di sản có thể được xếp hạng và cả nguồn lực phục vụ tu bổ, tôn tạo các di tích, di sản được nâng hạng, nhất là hạng đặc biệt.